Tổng hợp 10 trường hợp bệnh nhân điển hình do nhiễm giun chỉ Dirofilaria repens 2002-2008
Trường hợp 1. Bệnh do loài giun chỉ Dirofilaria repens là một bệnh truyền nhiễm của động vật, người bị nhiễm loại ký sinh trùng này là do tình cờ và hiếm khi tìm thấy dấu sưng phồng ở vùng dưới da quanh hốc mắt (subcutaneous periorbital). Các tác giả ở đây báo cáo một ca bệnh phụ nữ 62 tuổi có tiền sử 3 tháng nay xuất hiện các node dưới da vùng quanh ổ mắt (P). Điều trị với thuốc kháng sinh và corticosteroids không thấy thuyên giảm. Phân tích qua phim chụp cộng hưởng từ (MRI-Magnetic resonance imaging) cho thấy một cục nhỏ (node) với tính chất có tạo chất keo ở trung tâm (central colliquative area). Tổn thương chiếm chỗ phía trước của nhãn cầu (eyeball) không ảnh hưởng vùng cơ của trong hốc mắt. Bệnh nhân được đề nghị làm sinh thiết và nodule đo được kích thước 15 mm. Xét nghiệm mô học cho thấy phản ứng microabscess với hình ảnh thâm nhiễm lymphocyte đa dạng. Những mảnh cắt liên tục được làm cho hình ảnh Dirofilaria repens, chúng xoắn cuộn hình xoắn ốc với đỉnh uốn lượn bên ngoại vi đặc trưng bởi những tế bào biểu mô . Tổn thương khong tái phát trong vòng 5 tháng. Sưng phồng mắt có thể hiếm gặp gây ra do loài giun chỉ Dirofilaria repens; do đó, chẩn đoán này nên được nghĩ đến trong tất cả trường hợp phản ứng viêm ở dưới da niêm hoặc có tổn thương dạng khối u mà không rõ nguyên nhân để hướng đến chẩn đoán và điều trị (Albino Eccher et al., International Journal of Surgical Pathology, Vol. 16, No. 1, 101-103, 2008). Trường hợp 2. Chúng tôi báo cáo ca bệnh là nam giới 27 tuổi đang sống ở vùng nông thôn phía bắc củaTunisia, hiện có biểu hiện node ở bìu (của tinh hoàn) có dạng abscess dưới da. Kiểm tra dưới kính hiển vi của mẫu bệnh phẩm phẩu tích ra ra cho thấy hình ảnh liên quan đến bệnh lý ký sinh trùng. Khảo sát hình thể học đưa đến chẩn đoán là bệnh do Dirofilaria dưới da, loàiDirofilaria repens. Ca bệnh này đưa số ca bệnh ở đất nước Tunisia lên 6 và nhắc mọi người nhớ lại bệnh lý ký sinh trùng này ở quốc gia chúng tôi và tỷ lệ mắc mới tăng. Bìu là vị trí hiếm gặp cho bệnh này trong quá trình chẩn đoán phân biệt cũng sẽ khó khăn với một khối u ác tính hoặc có thể khởi phát một trường hợp cấp cứu ngoại khoa. Vi phẩu cho phép chẩn đoán và điều trị cho hiệu quả tốt (M. O'Reilly et al., European radiology J. 2007). Trường hợp 3. Hai ca bệnh nhiễm Dirofilaria repens ký sinh tại vú trên hai người phụ nữ trưởng thành Trung Quốc đang cư trú tại Hồng Kông. Chẩn đoán được xác định thông qua sinh thiết mô vú bằng kim nhỏ (FNA-Fine-Needle Aspiration biopsies). Các mẫu bệnh phẩm chưa nhiều tế bào viêm cấp tính, trong đó có cả eosin. Một con giun tròn trưởng thành bị hoại tử từng phần có đường kínhkhoảng 400-450 m được định danh sau khi cố định và xét nghiệm phân cắt tế bào cho mỗi ca. Giun có lớp vỏ cutile dày, bọc cả chiều dài của cơ thể và có nhiều đường kẻ sọc xuyên qua trên bề mặt, nhiều dải cơ vân, một ruột và một ống cơ quan sinh sản hoặc tử cung. Đặc điểm hình thái học của giun này qua mô tả đó tương thích và đồng nhất với loài Dirofilaria repens. Trong khi các thủ thuật thăm khám lâm sàng và xét nghiệm cận lâm sàng Xquang học cho bệnh lý do Dirofilariasis tại vú không đặc hiệu và na ná với những hình ảnh tổn thương khối tăng sinh tại vú hoặc viêm nhiễm tại vú. Một chẩn đoán xác định chỉ có thể là kết quả sinh thiết kim nhỏ (FNA). Một chẩn đoán đúng với bệnh Dirofilaria có thể giúp loại trừ bớt bệnh nhân tránh những can thiệp y khoa không cần thiết. (James H.B. Kong et al., Dirofilariasis of breast: Report of two cases diagnosed by fine-needle aspiration biopsy, 2002). Trường hợp 4. Một bệnh nhân được chẩn đoán viêm tuyến lệ một bên mắt tự phát và mạn tính (chronic and idiopathic unilateral dacryoadenitis) nhập viện vào phòng khám được chuyển đến từ bệnh viện khu vực. Trong suốt thời gian một năm, đây là lần thứ hai bệnh nhân phát hiện sưng vùng tuyến lệ, lần này không giống như lần đầu mà nó tỏ ra kháng lại với kháng sinh điều trị. Tình trạng toàn thân và thị lực của hai mắt vẫn tốt và anh ta chỉ phàn nàn về mặt thẩm mỹ vốn có bởi vì sự biến dạng và sưng phồng một bên của phía trên-trái nhãn cầu. Các xét nghiệm cận lâm sàng không có biểu hiện gì bất thường và chụp X quang chỉ có hình ảnh của tuyến lệ lớn hơn bình thường, trong khi không có sự phá hủy cấu trúc xương ổ mắt. Dữ liệu dịch tễ học không có viêm tuyến lệ nhiễm trùng, chúng tôi quyết định thực hiện sinh thiết vi phẩu tuyến lệ bên trái. Ngạc nhiên thay, các nhà bệnh học đã xác định có mặt của một con giun họ Dirofilaria. Điều này đã cho chúng tôi thêm nhiều kiến thức về loài ký sinh trung và đây là ca thứ 2 trên thế giới về viêm tuyến lệ do Dirofilaria repens (theo y văn) và là ca thứ 2 nhiễm bệnh được báo cáo ở quốc gia Croatia.(Jelena Juri et al., Ophthalmologica 2007;221:204-206, A Case of Lacrimal Gland Dirofilariasis). Trường hợp 5. Bệnh do Dirofilaria repens ở phổi và dưới datrên người dường như là một bệnh thường thấy trong một số vùng lưu hành, đáng chú ý là vùng Địa trung hải. Thực tế cho thấy con số ca đã gia tăng lên một cách đáng kể trong thời gian gần đây bằng đường du lịch máy bay và vì thế tỷ lệ mắc mới với Dirofilaria repens cũng tăng lên ở những người du lịch. Chúng tôi báo cáo tóm tắt một loạt 6 ca bệnh nhiễm Dirofilaria repens ở phổi và dưới da về khía cạnh ký sinh trùng, đã đươc phát hiện tại bệnh viện bệnh nhiệt đới của Đức. Trong số đó, 4 bệnh nhân có khối u dưới da do nhiễm Dirofilaria repens, ngược lại 2 ca còn lại có tổn thương thâm nhiễm ở phổi do một loại giun ký sinh tại tim là Dirofilarria immitis. Tất cả các ca này đều mắc phải ở vùng Địa trung hải. Các triệu chứng xuất hiện thường nhẹ và không đặc hiệu, không thấy tăng bạch cầu eosin trong máu ở tất cả bệnh nhân. Nồng độ IgE trong huyết thanh bình thường và không thấy các dấu chứng về đáp ứng miễn dịch dịch thể không đặc hiệuvới Dirofilaria spp., mặc dù, hiệu giá kháng thểtrong phản ứng kết hợp với kháng nguyên của Onchocerca volvulus tăng nhẹ trên tất cả bệnh nhân. Chẩn đoán xác định ở các bệnh nhân nhờ vào phẩu thuật lấy con giun trưởng thành từ trong mô ra ngoài. Điều trị bằng diethylcarbamazine (DEC) (2 mg/kg, uống 2 lần mỗi ngày) trong thời gian 4 tuần kết hợp với phẩu thuật điều trị ở tất cả bênh nhân và phải dùng ivermectine (150 mg/kg) trước đó. Nói chung, bệnhlý do Dirofilaria repens phải đựợc xem xét chẩn đoán phân biệt ở những bệnh nhân có xuất hiện khối hoặc node ở dưới da hoặc trong phổi sau khi đi du lịch đến vùng lưu hành trong một vài năm trở lại. Liệu pháp điều trị hiệu quả có thể là phẩu thuật lấy bỏ giun ra khỏi và dùng ivermectine phối hợp diethylcarbamazine đường uống. (Tomas Jelinek et al.,2007_Department of Infectious Diseases & Tropical Medicine, University of Munich, Germany) Trường hợp 6. Một bệnh nhi 14 tuổi, giới nữ, biểu hiện sưng phồng hình giun (vermiform) trên mi mắt trên bên trái, đó là triệu chứng khiến cô ta chú ý trong nhiều ngày gần đây. Cô ta cũng cảm nhận thỉnh thoảng có vật di chuyển bên trong chỗ sưng phồng. Vùng da bên trên ngay chỗ sưng phồng hoàn toàn bình thường và không có nổi bọng nước. Cả hai mắt đều bình thường và có thị lực tốt. Không có chỗ sưng phồng nào đáng chú ý ở các vùng khác của cơ thể. Xét nghiệm phân bệnh nhân không có biểu hiện gì đặc biệt về trứng ký sinh trùng hoặc nang ký sinh trùng và máu ngoại vi không tăng eosin. Bệnh nhân sinh sống tại một thị trấn vùng Angamaly (Kerala) ở nam Ấn Độ. Phần da bên trên của lớp sưng phồng hình giun này được rạch cẩn thận ra sau khi đã tiêm thuốc tê tại chỗ dưới da. Con giun cuộn tròn được thấy ngay bên dưới da. Giun được gắp ra khỏi vết rạch bằng forcep [xem hình bên2]. Hình thể giun màu trắng, thanh mảnh, kích thước chiều dài 105mm và chuyển động nhanh sau khi gắp ra. Mẫu bệnh phẩm được các nhà ký sinh trùng kiểm tra tại Đại học y học nhiệt đới Liverpool và họ đã kết luận đây là một con giun cái chưa trưởng thành Dirofilaria repens. Giun có một lớp vỏ cutin bao bọc và một phần ngắn của cơ thể tách ra cho thấy có tử cung và trứng bên trong nhưng không có ấu trùngmicrofilariae. (Ttyerah TP, Mallik D, A case of subcutaneous dirofilariasis of the eyelid in the South Indian state of Kerala, Indian Journal of Opthalmology, 2004). Trường hợp 7. Bệnh do giun chỉ Dirofilaria repens ở phổi rất hiếm gặp được gây bởi loài ký sinh trùng Dirofilaria spp., đây là một loại giun của chó được truyền qua người nhờ muỗi là vector truyền bệnh. Loài giun chỉ này đi vào mô dưới da, chu du đến tâm thất phải (right ventricle), chết và làm cục nghẽn tại mao mạch phổi, gây ra tình trạng nhồi máu phổi nhẹ, rối sau đó xuất hiện các node chắc hơn. Mặc dù, các node này thường được xác định thông qua kiểm tra phim phổicủa nhữung bệnh nhân khám sức khỏe định kỳ, nhìn chung là các khối tổn thương này là khối tăng sản. Chẩn đoán xác định thông qua phẩu tích cắt bỏ node. Qua ca bệnh này, bổ sung kiến thức về bệnh để chẩn đoán phân biệt tốt hơn trong các tổn thuowng hình đồng xu ở phổi (Ottavio Rena et al., Human pulmonary dirofilariasis: uncommon cause of pulmonary coin-lesion, European Journal of cardio-thoracic surgery, 2004)Trường hợp 8. Một người đàn ông 65 tuổi than phiền về khó chịu ở mắt phải đột ngột kể từ đêm hôm trước. Thăm khám kiểm tra cho thấy một con giun màu trắng nằm bên dưới kết mạc temporal bulbar. Sau khi lấy ra, xác định đặc điểm ký sinh trùng của giun là Dirofilaria repens (Nochtiella subgenus). Đây là ký sinh trùng ký sinh chủ yếu trên họ chó và họ mèo, thường không gây bệnh cho người nhưng có thể truyền qua người thông qua muỗi chích, đặc biệt ở vùng Địa Trung Hải. Gắp giun ra đơn giản vì giun đã đóng kén dưới da hoặc dưới kết mạc, sau khi lấy giun ra là chữa khỏi hoàn toàn. (H. Rouhette et al., Ocular Filariasis: not strictly Tropical International Ophthalmologica, 2002). Trường hợp 9. Bệnh do giun chỉ Dirofilaria repens là bệnh của động vật, một loài ký sinh trùng thường xảy ra chủ yếu ở khu vực Địa Trung Hải. Quá trình nhiễm bệnh xảy ra trong và quanh mắt trong số những người chăm sóc động vật thông qua vector lan truyền bệnh. Chúng tôi báo cáo 1 ca bệnh nữ giới 63 tuỏi đến từ Coimbatore, South India bị nhiễm khu trú, có lẽ là lạc chỗ dưới gân gấp (subtenon), mục đích của thông tin này là truyền tảivà tập hợp lại các chủ điểm về lâm sàng và quản lý bệnh do Dirofilaria repens tại mắt và đưa ra ca bệnh để luận bàn (Sathyan P et al., Subtenons infection by Dirofilaria repens, Indian Association of Medical Microbiologists, 2006). Trường hợp 10. Bệnh do Dirofilaria là một bệnh do muỗi truyền trên các động vật hoặc thú họ mèo và chó. Tại Ý, loài ký sinh trùng Dirofilaria repens vàDirofilarria immitis cùng khu vực phân bố và xuất hiện rất nhiều vùng khác nhau. 9 ca nhiễm ở người đã đươc báo cáo ở đây, phần lớn bệnh nhân Ý sống ở các vùng phía bắc (nơi mà D. immitis và D. repens có mặt chủ yếu), ở Tuscany (nơi mà D. repens chiếm nhiều hơn D. immitis) và ở Sicily (nơi mà D. immitis gặp duy nhất và xuất hiện rải rác). Phẩu thuật lấy bỏ giun ra khỏi tổn thương (7 mẫu cái và 2 mẫu đực) được xác định dựa vào kỹ thuật PCR và chẩn đoán hình thái học là loại D.repens. Về dữ liệu dịch tễ học, lâm sàng, và hình thái học của các con giun này nhiễm trên người đã được bàn luận. (G Cancrini et al., Nine more cases of human infections by Dirofilaria repens diagnosed in Italy by morphology and recombinant DNA technology, Istituto di Parassitologia, Universita La Sapienza, Roma)
|