Tinh chiết kháng nguyên sán lá gan từ các con sán non tăng độ chính xác và hạn chế được dương tính chéo trong xét nghiệm ?
Chẩn đoán bệnh sán lá gan lớn nói riêng và bệnh ký sinh trùng, đặc biệt các bệnh giun sán tiêu hóa nói chung hiện nay đang gặp phải vấn đề dương tính chéo cũng như dương tính giả khá cao. Chẳng hạn, tỷ lệ dương tính huyết thanh (seroprevalence) có thể lên đến 42-65% dương tính trong khám sáng lọc và cộng đồng hoặc tỷ lệ nhiễm sán lá gan lớn huyết thanh có thể dao động 3-5% (nhưng không tìm thấy các triệu chứng khác như trên siêu âm không thấy tổn thương dạng sán lá gan, không tăng bạch cầu ái toan, không có triệu chứng điển hình một ca bệnh sán lá gan lớn. Điều này khiến cho một số bệnh nhân và bác sĩ đều băn khoăn liệu có nên điều trị những ca như thế bằng thuốc đặc hiệu hay không, nếu không thì sự “hài lòng” của người dân không được đáp ứng,...Để khắc phục điều đó, hiện nay các nhà khoa học có nhiều cải tiến trong kít xét nghiệm nhằm hạn chế tối đa phản ứng dương tính chéo, một trong những cải tiến đó là họ tinh chiết kháng nguyên từ con sán non làm kháng nguyên chính cho bộ xét nghiệm của mình. Một vấn đề đang được quan tâm trong phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở động vật như cừu và vật nuôi. Sự phát hiện hiện tại cung cấp nguồn kháng nguyên đặc hiệu với giai đoạn non của sán. Người ta đã xác định bằng cách thu thập các con sán non Fasciola spp, tốt nhất là loài sán F. hepatica. Trong cả 2 phương pháp sử dụng kháng nguyên thô trích từ các con sán non Fasciola và sử dụng để tăng kháng antiserum (bằng cách tiêm vào thỏ). Tiếp đó antiserum sẽ tác dụng với những kháng nguyên Fasciola. Phức hợp kháng nguyên-kháng thể của sán trưởng thành hình thành, bỏ lại các thành phần khác antiserum bao gồm các kháng thể đặc hiệu sán non. Các kháng thể đặc hiệu cho sán non (juvenile specific antibodies) tách biệt phức hợp kháng nguyên kháng thể bằng cách quay ly tâm và lọc qua màng lọc “millipore". Điều này có được hoặc là bởi: (1) Tách các thành phần IgG, gồm các IgG đặc hiệu trên cột protein A hoặc (2) chủ thể sau khi antiserum hấp thụ dựa trên điện di miễn dịch kháng lại các kháng nguyên đặc hiệu với sán non thô và tăng antiserum chống lại các thành phần kháng nguyên của phức hợp này. Sau bước (1) hoặc bước (2), các kháng thể đặc hiệu với sán non (gồm IgG tinh khiết hoặc antiserum) được sử dụng để làm tinh khiết các kháng nguyên Fasciola thô. Điều đó có thể bỏ qua bước (1), trong trường hợp antiserum sau hấp phụ với các Ig của tất cả các lớp được sử dụng trong bước này. Kháng nguyên tự do được giải phóng khỏi các chát liệu đang ở trong cột điện di. Sáng kiến này xem như một bước cải tiến nhằm làm hạn chế phản ứng dương tính chéo trong xét nghiệm huyết thanh miễn dịch của bệnh sán lá gan lớn (Fascioliasis serodiagnosis). Trong đó, người ta chú ý một mảnh kháng nguyên mang yếu tố quyết định kháng nguyên đặc hiệu sán non, một vaccine bao gồm kháng nguyên hoặc các mảnh của kháng nguyên với nhau xem như một tá dược hoặc chất mang và các kháng thể đơn dòng và đa dòng với kháng nguyên hoặc yếu tố quyết định kháng nguyên.
|