Home TRANG CHỦ Chủ nhật, ngày 24/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Finance & Retail Thư viện điện tử
Công trình nghiên cứu về Ký sinh trùng
Công trình nghiên cứu về Sốt rét & SXH
Công trình nghiên cứu về Côn trùng & véc tơ truyền
Đề tài NCKH đã nghiệm thu
Thông tin-Tư liệu NCKH
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 2 0 1 9 9 5
Số người đang truy cập
5 0 1
 Thư viện điện tử Thông tin-Tư liệu NCKH
Tiếp cận một số phương pháp chẩn đoán ung thư mới

Ung thư là một nhóm các bệnh liên quan đến việc phân chia tế bào một cách vô tổ chức và những tế bào đó có khả năng xâm lấn những khác bằng cách phát triển trực tiếp vào mô lân cận hoặc di chuyển đến nơi xa (di căn).

 

Nguyên nhân gây ung thư là sự sai hỏng của ADN, tạo nên các đột biến ở các gene thiết yếu điều khiển quá trình phân bào cũng như các cơ chế quan trọng khác. Một hoặc nhiều đột biến được tích lũy lại sẽ gây ra sự tăng sinh không kiểm soát và tạo thành khối u. Khối u là một khối mô bất thường, có thể ác tính, tức ung thư hoặc lành tính, tức không ung thư. Chỉ những khối u ác tính thì mới xâm lấn mô khác và di căn. Khái niệm ác hay lành tính ở đây nên hiểu về mặt giải phẫu bệnh học nhiều hơn là về khả năng gây chết người. Thật vậy, một người có thể sống nhiều năm với một ung thư hắc tố da, trong khi một khối u "lành tính" trong hộp sọ có thể chèn ép não gây tàn phế hoặc tử vong.

Ung thư có thể gây ra nhiều triệu chứng khác nhau phụ thuộc vào vị trí, đặc điểm và khả năng di căn của khối u. Chẩn đoán xác định ung thư thường đòi hỏi phải sinh thiết rồi quan sát trên kính hiển vi. Người bị ung thư có thể được chữa trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu hoặc xạ trị liệu. Nếu không được chữa trị sớm, hầu hết các loại ung thư có thể gây tử vong, đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong chính trong những nước phát triển. Hầu hết các bệnh ung thư có thể chữa trị và nhiều bệnh có thể chữa lành, nếu được phát hiện và điều trị sớm. Nhiều dạng ung thư có liên quan đến các yếu tố môi trường mà có thể tránh khỏi. Hút thuốc lá là một trong những yếu tố gây nguy cơ ung thư nhiều nhất.  

  

     Ung thư là tên chung dùng để gọi một nhóm bệnh trên 200 loại khác nhau về nguồn gốc của tế bào, căn nguyên, tiên lượng và cách thức điều trị nhưng có những đặc điểm chung, đó là sự phân chia không kiểm soát được của tế bào, khả năng tồn tại và phát triển ở các cơ quan và tổ chức lạ. Các ung thư thường phát triển từ một tế bào ban đầu và phải mất nhiều năm cho tới khi có một kích thước đủ lớn để có thể nhận thấy được. Quá trình phát triển từ một tế bào duy nhất thành một khối ung thư trải qua nhiều giai đoạn. Thông thường, các tế bào lành có một tuổi thọ nhất định và tuân thủ theo một quy luật chung là phát triển - già - chết. Các tế bào chết đi lại được thay thế bằng các tế bào mới. Cơ thể có một cơ chế kiểm soát quy luật này một cách chặt chẽ và duy trì số lượng tế bào ở mỗi cơ quan, tổ chức ở mức ổn định. Bệnh ung thư bắt đầu khi có một tế bào vượt qua cơ chế kiểm soát này của cơ thể, bắt đầu phát triển và sinh sôi không ngừng nghỉ, hình thành một đám tế bào có chung một đặc điểm phát triển vô tổ chức, xâm lấn và chèn ép vào các cơ quan và tổ chức xung quanh. Các tế bào ung thư có liên kết lỏng lẻo, dễ dàng bứt ra khỏi khối u mẹ, theo mạch máu và mạch bạch huyết di cư đến các tổ chức và cơ quan mới, bám lại và tiếp tục sinh sôi nẩy nở (quá trình này gọi là di căn”). Các ung thư chèn ép hoặc di căn vào các cơ quan giữ chức năng sống của cơ thể như não, phổi, gan, thận… bệnh nhân sẽ tử vong.

Ngày nay, người ta đã biết rằng sự phát triển bình thường của tế bào trong cơ thể được kiểm soát bằng ba nhóm gen:

-Nhóm gen sinh trưởng (oncogenes) chịu trách nhiệm về sự phát triển và biệt hóa của tế bào. Nếu nhóm gien này bị tổn thương (biến dị), nó hoạt động không theo đúng quy luật và sẽ khiến các tế bào phân chia liên tục và phát triển một cách không kiểm soát được.

-Nhóm gen ức chế (oncogene supressors): Chịu trách nhiệm ức chế gien sinh trưởng, không cho các tế bào tham gia tùy tiện vào chu kỳ sinh trưởng. Nếu gien này bị mất hoặc bị tổn thương, các gien sinh trưởng bị mất kiểm soát và hoạt động một cách bất thường khiến cho các tế bào sẽ sinh sản bất bình thường;

-Nhóm gen sửa chữa: Là nhóm gen chịu trách nhiệm điều chỉnh những sai sót trong hoạt động của hai loại gien trên. Nếu loại gen này bị tổn thương thì những biến dị của hai loại gen trên sẽ không được khắc phục và sẽ dẫn đến sự sinh trưởng bất bình thường của tế bào.

Trong bài chúng tôi xin tổng hợp một số bài viết và tư liệu chuyên sâu và phổ thông của quý đồng nghiệp trong và ngoài nước, đặc biệt các bài viết mang tính chuyên khoa của Chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống ung thư - Ban điều hành chương trình Phòng chống ung thư-Viện Nghiên cứu Phòng chống ung thư Việt Nam

Chẩn đoán giai đoạn ung thư

Hiệp hội chống ung thư quốc tế đã phát triển một hệ thống phân chia giai đoạn của các khối u ác tính gọi là TNM (T: tumor - khối u, N: node - hạch lympho, M: metastasis - di căn). Trong một vài ung thư cụ thể, một số bảng phân loại khác lại thích hợp hơn, thí dụ hệ thống xếp loại FAB (French-American-Bristish cooperative group) dùng cho một số bệnh bạch huyết.
 

Tầm soát ung thư

Tầm soát ung thư là thử nghiêm nhằm thăm dò các dạng ung thư nghi ngờ trong quần thể dân cư. Các thử nghiệm tầm soát phù hợp phải có thể đáp ứng được cho một số lượng lớn người khỏe mạnh, an toàn, không xâm nhập đồng thời có tỷ lệ dương tính giả thấp chấp nhận được. Khi triệu chứng ung thư được phát hiện thì các phương pháp chẩn đoán kế tiếp thâm nhập hơn và có khả năng khẳng định hơn được thực hiện để xác nhận chẩn đoán.

Tầm soát ung thư có thể giúp phát hiện sớm bệnh. Chẩn đoán sớm giúp kéo dài đời sống. Một số thử nghiệm tầm soát đã được triển khai. Tầm soát ung thư vú có thể được thực hiện bởi tự khám vú. Tầm soát bằng chụp tuyến vú phát hiện được khối u sớm hơn cả tự thăm khám, và nhiều nước sử dụng nó để tầm soát một cách hệ thống tất cả các phụ nữ trung niên. Ung thư đại trực tràng có thể được phát hiện nhờ vào xét nghiệm máu tiềm ẩn trong phânsoi đại tràng, chúng giúp làm giảm đi cả tỷ lệ mắc bệnh và tử vong nhờ phát hiện và loại bỏ các polyp tiền ác tính. Một cách tương tự, xét nghiệm tế bào học cổ tử cung (sử dụng Pap smear) giúp xác định và cắt bỏ các tổn thương tiền ung thư. Qua thời gian, những thử nghiệm như vậy đã dẫn đến giảm rõ rệt tỷ lệ ung thư cổ tử cung và tỷ lệ tử vong. Nam giới được khuyên tự khám tinh hoàn bắt đầu từ tuổi 15 để phát hiện ung thư tinh hoàn. Ung thư tiền liệt tuyến (nhiếp hộ tuyến) có thể được tầm soát nhờ vào khám trực tràng bằng ngón tay cùng với thử máu tìm kháng nguyên đặc hiệu tiền liệt tuyến (PSA).
 

Tầm soát ung thư là vấn đề còn bàn cãi trong những trường hợp khi không biết chắc nó có thực sự cứu mạng sống hay không. Tranh cãi đặt ra khi không rõ là liệu lợi ích từ việc tầm soát có hơn hẳn nguy cơ của các xét nghiệm chẩn đoán tiếp theo và điều trị ung thư. Ví dụ trong trường hợp tầm soát ung thư tiền liệt tuyết, xét nghiệm PSA có thể phát hiện những ung thư nhỏ mà sẽ không bao giờ trở nên đe dọa đến tính mạng, nhưng khi đã được chẩn đoán thì sẽ dẫn đến điều trị. Tình trạng này gọi là chẩn đoán quá mức, đưa con người đối diện với nguy cơ các biến chứng của điều trị không cần thiết như là phẫu thuật hay xạ trị. Những thủ thuật tiếp theo được sử dụng để chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến (như sinh thiết tiền liệt tuyến) có thể gây ra các tác dụng phụ, như chảy máu và nhiễm trùng. Điều trị ung thư tiền liệt tuyến có thể dẫn đến viêc đái són (mất khả năng kiểm soát dòng nước tiểu) và rối loạn cường dương (cương không đủ cho giao hợp). Tương tự đối với ung thư vú, gần đây có những phê bình về chương trình tầm soát ung thư ở một vài nước đã gây là nhiều bất cập hơn là lợi ích thu được. Đó là vì tầm soát phụ nữ trong quần thể rộng sẽ gây ra một số lớn dương tính giả cần khảo sát tiếp theo để loại trừ ung thư, dẫn đến tăng số cần điều trị (hay số cần tầm soát) để phòng ngừa hay bắt gặp một trường hợp ung thư vú giai đoạn sớm.

Về phương diện y tế công cộng, tầm soát ung thư cổ tử cung bằng Pap smear có hiệu quả - chi phí tốt nhất trong các dạng tầm soát ung thư vì ung thư này có yếu tố nguy cơ rõ ràng (tiếp xúc qua đường tình dục) và diễn tiến tự nhiên chậm qua nhiều năm do đó cho phép chúng ta có thời gian để tầm soát và phát hiện bệnh sớm. Hơn nữa, xét nghiệm này cũng dễ thực hiện và tương đối rẻ tiền. Sử dụng chẩn đoán hình ảnh để truy tầm ung thư ở những người không có triệu chứng rõ ràng cũng có những vấn đề rắc rối tương tự. Nguy cơ tăng đáng kể trong việc phát hiện những khối u mà gần đây được gọi là khối u tình cờ - đó là tổn thương lành tính được xem là ác tính để rồi trở thành điểm ngắm cho các thăm dò nguy hiểm khác. Vì những lý do này, điều quan trọng là lợi ích và nguy cơ của quá trình chẩn đoán và điều trị phải đựơc cân nhắc khi tiến hành tầm soát ung thư.

Ung thư ở người lớn

Mỹ và các nước phát triển khác ung thư chiếm khoảng 25% trường hợp chết do mọi nguyên nhân1. Theo thống kê hàng năm thì khoảng 0,5% dân số được chẩn đoán ung thư. Đối với nam giới trưởng thành ở Mỹ, các loại ung thư hay gặp là ung thư tiền liệt tuyến (33% của tất cả các loại ung thư), ung thư phổi (13%), ung thư đại trực tràng (10%), ung thư bàng quang (7%) và u hắc tố ở da (5%). Nguyên nhân tử vong do ung thư phổi hay gặp nhất (31%), sau đó là ung thư tiền liệt tuyết (10%), ung thư đại trực tràng là (10%), ung thu tụy (5%) bệnh ung thư bạch cầu (4%)1.

Đối với phụ nữ trưởng thành ở Mỹ, ung thư vú hay gặp nhất (32% của tất cả các loại ung thư) theo sau bởi ung thư phổi (12%), ung thư đại trực tràng (11%), ung thư nội mạc tử cung (6%) và u lympho bào không Hodgkin (4%). Theo nguyên nhân tủ vong, ung thư phổi lại là dẫn đầu (27% trong tống số chết do ung thư), theo sau bởi ung thư vú (15%), ung thư trực tràng (10%), ung thư buồng trứng (6%) và ung thư tụy (6%). Những con số thông kê này thay đổi theo từng nước.

Những ung thư khác:

·Ung thư biểu mô: ung thư da (thực tế đây là ung thư hay gặp nhất nhưng lại không đựoc phân loại theo thống kê sức khỏe), ung thư cổ tử cung, carcinoma hậu môn, ung thư thực quản, carcinoma tế bào gan, ung thư thanh quản, carcinoma tế bào thận, ung thư dạ dày, nhiều loại ung thư tinh hoànung thư tuyến giáp.

·Bệnh lý ác tính về huyết học (máutủy xương): leukemia (bệnh bạch cầu), u limpho bào, bệnh đa u tủy.

·Sarcoma (ung thư mô liên kết): sarcoma xương, sarcoma sụn, sarcoma cơ vân.

·Có nguồn gốc hỗn hợp: u não, u mô đệm đường tiêu hóa (GIST), u trung biểu mô (ở màng phổi hay màng tim), u tuyến ức, u quái, u hắc tố.

Ung thư ở trẻ em

Ung thư có thể xảy ra ở trẻ nhỏ và thiếu niên. Ở đó các tiến trình di truyền bất thường, mà không có khả năng bảo vệ chống lại sự phát triển bất thường của các dòng tế bào bệnh lý, xảy ra rất sớm và có thể diễn tiến rất nhanh chóng.

Lứa tuổi có tỷ lệ ung thư cao nhất là năm đầu tiên của cuộc sống. Bệnh bạch cầu (thường là bệnh bạch cầu nguyên bào lymphô cấp - acute lymphoblastic leukemia hay ALL) là dạng ung thư hay gặp nhất ở trẻ nhũ nhi (30%), theo sau đó là ung thư hệ thần kinh trung ương và u nguyên bào thần kinh (neuroblastoma). Phần còn lại thuộc về u Wilms, u lympho bào, sarcoma cơ vân, u nguyên bào võng mạc (retinoblastoma), sarcoma xươngsarcoma Ewing.

Bé gái và trai có chung về tỷ lệ ung thư, nhưng trẻ nhỏ da trắng có tỷ lệ ung thư cao hơn trẻ nhỏ da đen trong hầu hết các dạng ung thư. Tỷ lệ sống sót đối với trẻ nhỏ là rất cao trong các trường hợp u nguyên bào thần kinh, u Wilms và u nguyên bào võng mạc, và tương đối cao (80%) đối với leukemia, nhưng lại không tốt đối với các loại ung thư khác.

CÁC PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN CHẨN ĐOÁN UNG THƯ

I. Khám lâm sàng

Là phương pháp lâu đời, được áp dụng rộng rãi nhất. Thầy thuốc cần phải biết rõ những triệu chứng ban đầu chính yếu của các loại ung thư khác nhau. Người thầy thuốc đầu tiên khám bệnh là người có trách nhiệm nặng nề trong việc chẩn đoán sớm để bệnh nhân có nhiều hy vọng được chữa khỏi. Cần khai thác tỉ mỉ tiền sử của bệnh nhân, tiền sử gia đình mắc một số bệnh ung thư như ung thư tuyến giáp, đại trực tràng, ung thư vú, buồng trứng... Tiền sử xã hội là quan trọng. Tỷ lệ ung thư cổ tử cung cao hơn ở những nhóm quần thể mà điều kiện kinh tế xã hội thấp. Tiền sử hôn nhân và giới tính cũng quan trọng. Số lượng sinh đẻ và quá trình cho con bú có một số ảnh hưởng đến tỷ lệ ung thư vú, cũng như sinh hoạt tình dục sớm có liên quan đến tỷ lệ tăng cao ung thư cổ tử cung. Những tập quán cá nhân như hút thuốc lá làm tăng tỷ lệ ung thư phế quản, nhai thuốc hay hút thuốc tẩu làm tăng tỷ lệ ung thư miệng.
 

Cần lưu ý đến những triệu chứng báo động sau: thay đổi thói quen ruột, bàng quang như tiêu chảy kéo dài không rõ nguyên nhân, đái dắt, đái khó kéo dài... Vết lở loét kéo dài không khỏi với các thuốc điều trị thông thường. Chảy máu, tiết dịch bất thường. Một u ở vú hoặc ở bất kỳ nơi nào của cơ thể, có khi chỉ là chỗ dày lên. Khó nuốt, rối loạn tiêu hóa kéo dài. Nốt ruồi thay đổi kích thước, màu sắc, nhất là chảy máu. Ho dai dẳng, khàn tiếng kéo dài.

II. Các phương pháp cận lâm sàng

·Chụp Xquang được chỉ định cho những bệnh nhân có triệu chứng ung thư phổi hay những ung thư ở các vị trí khác có thể di căn vào phổi. Chụp X quang kết hợp chất cảm quan để phát hiện ung thư dạ dày, đại tràng. Chụp vú có hệ thống có kết quả tốt hơn trong phát hiện sớm ung thư vú. Chụp X quang có kết quả tốt trong phát hiện sớm ung thư vú. Chụp Xquang xương có thể phát hiện được các ung thư xương, nhất là đối với các thanh thiếu niên có triệu chứng đau xương khớp chưa rõ nguyên nhân;

·Chụp nhiệt chủ yếu dùng cho các khối u dưới da như ung thư vú, ung thư hắc tố;

·Chụp nhấp nháy với các đồng vị phóng xạ được sử dụng để chẩn đoán ung thư, phát hiện các di căn xương, gan, xác định các nhân lạnh ở giáp trạng...

·Siêu âm được áp dụng nhiều để phát hiện các tổn thương u ở sâu hay trong các cơ quan nội tạng.
   

·Chụp cắt lớp vi tính cho phép chụp hàng loạt hình rất rõ và chính xác theo chiều ngang của cơ thể (như các khoanh dồi) ở mọi mức cao thấp, để trình bày hình khối ba chiều của các cơ quan trong cơ thể và tránh được sự chồng chất các hình ảnh. Chụp cắt lớp vi tính có khả năng phát hiện các khối u đường kính xấp xỉ 1cm trong nhiều cơ quan, kể cả các cơ quan nằm sâu trong cơ thể khó với tới như: não, thận và tụy tạng.

·Chụp cộng hưởng từ là một phương pháp làm hiện hình mới nhất có thể cho một hình cắt ngang ở bất cứ một bình diện nào chứ không phải chỉ ở một diện trục. Chụp cộng hưởng từ cho phép phát hiện sự khác biệt tín hiệu giữa mô lành và mô bệnh nhờ thành phần nước trong mô không giống nhau. Cộng hưởng từ hạt nhân có thể cho phép phân biệt được một số tổn thương tùy theo mức độ cộng hưởng từ trường của hạt nhân.

·Chụp hình qua kháng thể đơn dòng: Kháng thể đơn dòng là loại kháng thể chỉ phản ứng đặc hiệu với riêng một loại kháng nguyên nhất định. Khi được tiêm vào cơ thể, kháng thể sẽ tìm đúng đối tượng là các kháng nguyên đặc hiệu nằm trên bề mặt các tế bào ung thư, lượng đồng vị phóng xạ gắn trên kháng thể đơn dòng sẽ được đo bằng máy Gamma và như vậy sẽ làm hiện hình khối u với vị trí và kích thước rõ ràng;

·Chụp PET/CT: Chụp FDG PET cho thấy quá trình hấp thu đường trong cơ thể. Tất cả các tế bào trong cơ thể đều cần tiêu thụ năng lượng và năng lượng này được tổng hợp từ đường trong cơ thể;

·Nhiều loại tế bào ung thư cần được cung cấp nhiều đường hơn tế bào bình thường. Chụp FDG PET được dùng để phát hiện ra những vùng bị rối loạn chuyển hóa và các khối u ác tính trong cơ thể bệnh nhân dễ dàng hơn;

·Những chất chỉ điểm sinh học là những chất được các tế bào ung thư tổng hợp ra và thường thì không thấy hoặc thấy với số lượng nhỏ ở các tế bào lành. Hiện nay, người ta tìm được khoảng năm chục chất chỉ điểm sinh học của ung thư, nhưng chỉ có khoảng chừng mười loại được dùng để phát hiện sớm ung thư hoặc để theo dõi quá trình điều trị.

-Kháng nguyên AFP tăng cao có thể phù hợp với một ung thư gan hoặc ung thư tinh hoàn. Kháng nguyên CEA cho phép nghĩ đến các ung thư ống tiêu hóa hoặc các ung thư vú. Kháng nguyên VCA được thấy trong ung thư vòm họng.

-Gần đây có một số chất chỉ điểm sinh học mới tìm ra, trong đó CA-125 là có giá trị ở ung thư buồng trứng vì 80% phụ nữ bị bệnh này có chất đó ở mức độ cao.

·Các phương pháp nội soi: Nội soi giữ một vai trò quan trọng trong chẩn đoán ung thư. Nhờ có những phương tiện quang học mà những tổn thương tiền ung thư hay ung thư có thể được nhận thấy, được chụp ảnh và được lấy đi để xét nghiệm mô bệnh học.

 

 Xét nghiệm phát hiện tế bào ung thư

 

·Ngày nay đã có những ống nội soi mềm dùng ánh sáng lạnh rất phổ biến ở các nước phát triển để khám xét phần lớn các cơ quan nội tạng. Nhờ sử dụng ánh sáng lạnh cao thế mà ta nhìn được những ảnh rõ nhất và những hình ảnh đó lại có thể được truyền ra màn hình để ghi nhận lại được.

·Chẩn đoán tế bào học: Phân loại của Papanicolaou:

-Loại 1: Phiến đồ bình thường.

-Loại 2: Phiến đồ bất bình thường nhưng chỉ là viêm.

-Loại 3: Phiến đồ nghi ngờ ác tính.

-Loại 4: Phiến đồ ung thư, tế bào ác tính chưa nhiều.

-Loại 5: Phiến đồ chắc chắn ung thư, dày đặc tế bào ác tính.

Từ kỹ thuật tế bào học bong tới các kỹ thuật áp, quệt, phết các mảnh bệnh phẩm các loại, ngày nay người ta có thể sử dụng kỹ thuật chọc hút tế bào bằng kim nhỏ với hầu hết các tổn thương cơ thể, kể cả các tạng sâu. Qua thực tế đã khẳng định rằng chỉ có phương pháp tế bào học mới đáp ứng đầy đủ nhất cả 5 yêu cầu: đơn giản, nhạy, tin cậy, có hiệu suất và tiết kiệm.

·Các xét nghiệm huyết học chủ yếu để chẩn đoán một số ung thư thuộc hệ tạo máu mà thực chất là chẩn đoán tế bào học. Huyết đồ cho phép xác định ung thư như các bệnh bạch cầu. Tủy đồ cho phép xác chẩn các ung thư bạch cầu, có giá trị hơn so với huyết đồ. Trong một số trường hợp như bệnh Hodgkin, u limphô ác không phải Hodgkin, tủy đồ giúp đánh giá sự lan tràn của bệnh;

·Chẩn đoán mô bệnh học: việc chẩn đoán mô bệnh học của ung thư là rất quan trọng. Phải định được loại ung thư (dạng vi thể hay dạng mô học) vì việc điều trị, nhất là điều trị hóa chất hoàn toàn phụ thuộc vào kết quả này. Nói chung, không thể điều trị ung thư khi bệnh nhân chưa được chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm mô bệnh học.

Từ những thông tin thu thập được qua hỏi, khám lâm sàng và các xét nghiệm, người thầy thuốc đưa ra chẩn đoán: Xác định bệnh, thể bệnh, giai đoạn bệnh. Trên cơ sở chẩn đoán đầy đủ, toàn diện mới đưa ra phương án điều trị hiệu quả nhất. Tóm lại, có nhiều các phương pháp để chẩn đoán ung thư. Người thầy thuốc chẩn đoán ung thư phải biết lựa chọn và kết hợp chỉ định các phương pháp khác nhau, trong đó có những phương pháp nhất thiết phải làm. Tuy nhiên, con đường chẩn đoán ung thư hợp lý nhất là đi từ lâm sàng đến cận lâm sàng, từ giản đơn đến phức tạp.

Những bước đột phá trong trong chẩn đoán, điều trị ung thư

Phương pháp mới chẩn đoán ung thư cổ tử cung
 

Ung thư cổ tử cung đứng hàng thứ 3 trong số ung thư của bộ máy sinh dục nữ, được sàng lọc sớm bằng soi phiến đồ âm đạo, được chẩn đoán xác định bằng soi cổ tử cung và sinh thiết. Tuy nhiên để quyết định chiến lược điều trị như khoét chóp, cắt toàn bộ tử cung, tia xạ- hóa trị liệu đơn độc hay kết hợp các phương pháp, cần phải đánh giá được giai đoạn của ung thư cổ tử cung. Chụp cộng hưởng từ (CHT) có từ trường cao 1.5 Tesla hiện đang là phương pháp chẩn đoán hình ảnh tối ưu để giúp phân giai đoạn ung thư cổ tử cung (UTCTC).

Đánh giá đúng để có chiến lược điều trị đúng

UTCTC là bệnh ung thư hay gặp ở phụ nữ, chỉ đứng sau ung thư vú và ung thư buồng trứng, đặc biệt hay gặp ở các nước kém phát triển. Về chẩn đoán, ngoài dựa vào triệu chứng lâm sàng của bệnh nhân (thường là rong kinh hay ra huyết bất thường) và thăm khám âm đạo, hiện nay phương pháp để sàng lọc sớm UTCTC là phương pháp soi tế bào phiến đồ âm đạo (Pap), để chẩn đoán xác định, người ta dùng soi cổ tử cung và sinh thiết. Tuy nhiên, để quyết định chiến lược điều trị UTCTC cần phải đánh giá được giai đoạn của bệnh theo bảng phân giai đoạn của Hiệp hội sản phụ khoa quốc tế (FIGO- International Federation of Gynecology and Obstetrics) mà trên thế giới hiện đang dùng. Đây chính là nhiệm vụ của chẩn đoán hình ảnh mà trong đó đặc biệt là chụp CHT. Chụp CHT có từ trường cao 1.5 Tesla sẽ đánh giá được các yếu tố: kích thước khối u, mức độ xâm lấn của u vào lớp cơ cổ tử cung, đáy dây chằng rộng, thành bên tiểu khung, các tạng lân cận (bàng quang, trực tràng), xâm lấn vào ống âm đạo. Trên cơ sở đó sẽ giúp bác sĩ điều trị có được chỉ định điều trị phù hợp nhất.

Chiến lược điều trị UTCTC hoàn toàn phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Trước đây và trong phần lớn các bệnh viện tại Việt Nam hiện nay, các bác sĩ lâm sàng vẫn dựa vào thăm khám âm đạo và sinh thiết để đánh giai đoạn của bệnh. Tuy nhiên sinh thiết chỉ đánh giá được các giai đoạn ung thư tại chỗ và ung thư giai đoạn tiền lâm sàng, còn thăm khám âm đạo đánh giá các giai đoạn tiến triển hơn của bệnh có độ chính xác rất thấp (độ chính xác 68- 83%) ở ung thư giai đoạn lâm sàng, khi kích thước khối u ở mức độ 4cm. Trong giai đoạn ung thư phát triển ra ngoài cổ tử cung, chỉ ở 2/3 trên âm đạo và chưa tới thành bên tiểu khung thì chỉ đánh giá được 46-61%.

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác như siêu âm hay chụp cắt lớp vi tính cũng có rất ít giá trị trong đánh giá mức độ xâm lấn tại chỗ của UTCTC. Trong khi đó, CHT từ trường cao 1.5 Tesla có độ phân giải cao, có chuỗi xung T1 xóa mỡ, có khả năng đánh giá được các yếu tố: kích thước khối u, mức độ xâm lấn của u vào lớp cơ, vào đáy dây chằng rộng, thành bên tiểu khung, các tạng lân cận (bàng quang, trực tràng), vào ống âm đạo sẽ là phương pháp chẩn đoán hình ảnh tối ưu để giúp phân giai đoạn UTCTC.

Phân loại giai đoạn UTCTC trên CHT

 Hình ảnh của UTCTC trên CHT là tổn thương dạng khối hay đám thâm nhiễm, tăng nhẹ tín hiệu trên T2, tín hiệu trung gian trên T1, bắt thuốc sau tiêm gadolium nhưng kém hơn cơ thành ống cổ tử cung, vị trí xuất phát từ phần nội mạc của ống cổ tử cung hoặc phần lỗ ngoài cổ tử cung. Tổn thương có thể nằm khu trú trong cổ tử cung hay xâm lấn ra ngoài vào các cấu trúc lân cận, xâm lấn xuống dưới vào ống âm đạo hay lên trên vào trong buồng tử cung. Có thể thấy dấu hiệu gián tiếp là hình ảnh ứ dịch- máu trong buồng tử cung.

Kích thước của tổn thương để áp dụng trong phân giai đoạn của FIGO là kích thước đo được trên chiều lớn nhất của khối u, trên chuỗi xung T2. Cần lưu ý là trong đánh giá UTCTC, chuỗi xung T2 là chuỗi xung quan trọng nhất. Theo một số tác giả nước ngoài, không cần chụp chuỗi xung T2 FatSat để đánh giá u mà chỉ sử dụng khi muốn đánh giá di căn hạch.

Hình ảnh các giai đoạn UTCTC trên CHT 1.5 Tesla:
 

-Tổn thương ung thư giai đoạn tiền lâm sàng, khi khối u xâm lấn ở mức độ vi thể thường kín đáo vào hay có âm tính giả trên CHT, nếu có chỉ thấy u rất nhỏ tăng tín hiệu trên T2, trong ống cổ tử cung, lớp cơ thành cổ tử cung giảm tín hiệu còn nguyên vẹn, cân đối. Trong trường hợp trên, soi cổ tử cung và sinh thiết có u, không rõ trên CHT trên T2 thì nên tiêm đối quang từ. Cũng chính vì vậy theo các tác giả nước ngoài, những trường hợp khối u trên lâm sàng dưới 2cm có thể cân nhắc chỉ định chụp CHT.

-Tổn thương giai đoạn lâm sàng phá vỡ lớp cơ giảm tín hiệu thành cổ tử cung, nhưng vẫn còn một viền giảm tín hiệu bao quanh u.

-Tổn thương giai đoạn ung thư phát triển ra ngoài cổ tử cung, chỉ ở 2/3 trên âm đạo và chưa tới thành bên tiểu khung.

-Tổn thương giai đoạn ung thư phá vỡ hình giảm tín hiệu của thành ống âm đạo tới đoạn 1/3 dưới âm đạo hoặc u lan tới thành tiểu khung, xâm lấn cơ bịt trong, cơ lê, cơ nâng hậu môn hoặc u gây giãn niệu quản.

-Tổn thương giai đoạn cấu trúc tín hiệu tổ chức u lan vào gây mất hình ảnh giảm tín hiệu thành bàng quang hay thành trực tràng hoặc di căn xa vào các tạng hay cấu trúc giải phẫu khác.

-Các dấu hiệu di căn hạch, di căn xa có thể phát hiện trên chuỗi xung T2 FatSat trên các lát cắt qua ổ bụng ở mức cao hơn.

Tóm lại, vai trò của CHT từ lực cao 1.5 Tesla trong bệnh lý UTCTC không phải là chẩn đoán xác định bệnh mà là đánh giá mức độ phát triển và xâm lấn của u, nhằm mục đích chẩn đoán giai đoạn của UTCTC theo phân loại FIGO, giúp bác sĩ lâm sàng đưa ra được chiến lược điều trị thích hợp cho từng bệnh nhân. CHT đã trở thành thăm khám hình ảnh không thể thiếu được trong đánh giá tổng thể UTCTC trước điều trị, cần được chỉ định tuyệt đối trong trường hợp khối u có kích thước trên 2cm.

Xét nghiệm máu chẩn đoán sớm một số loại ung thư ở người

Các nhà khoa học thuộc Viện Nghiên cứu Nhi khoa Australia vừa tìm ra một phương pháp thử máu không những giúp chẩn đoán sớm bệnh ung thư mà còn giúp điều trị một số bệnh ung thư. Theo các nhà khoa học, đây thực sự là bước đột phá trong việc chẩn đoán và điều trị ung thư trong 30 năm qua, nhất là đối với ung thư não và xương. Khi phát hiện bị ung thư não, thông thường người bệnh chỉ có thể sống thêm một năm. Tiến trình xét nghiệm để tìm ra bệnh thường kéo dài nhiều tháng và bác sĩ phải thực hiện nhiều cuộc phẫu thuật để có được bệnh phẩm của khối u trong não. Nhưng mới đây, Viện Nghiên cứu Nhi khoa Australia đã phát hiện phương pháp mới xét nghiệm máu có thể giúp chẩn đoán sớm những loại ung thư này.
 

Bác sĩ Jeremy Henson cho biết phương pháp mới có thể xác định được khoảng 15% loại bệnh ung thư, đặc biệt là ung thư xương, não, mô liên kết, ung thư vú và phổi. Với phương pháp này, bác sĩ chỉ cần lấy mẫu máu như mọi xét nghiệm máu thông thường.

Phương pháp mới cho kết quả nhanh hơn trước rất nhiều và các nhà nghiên cứu hy vọng phương pháp này sẽ giúp họ đẩy nhanh tiến độ nghiên cứu các loại thuốc mới chữa trị ung thư, nhất là ung thư não và xương. Hội đồng Ung thư New South Wales cho rằng thí nghiệm mang tính đột phá này có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với bệnh nhân ung thư não và ung thư xương.

Theo Giám đốc Hội đồng, tiến sĩ Andrew Penman, nhìn lại công tác điều trị ung thư trong suốt 30 năm qua, người ta thấy không có tiến triển gì nhiều. Riêng đối với ung thư não, trong 40 năm qua chỉ có hai thành tựu y học quan trọng. Vì thế, phương pháp mới này đã mở ra hy vọng lớn trong việc điều trị ung thư, nhất là đối với ung thư não.

Phương pháp mới chẩn đoán và điều trị ung thư vú

Phương pháp xác định chính xác sự biểu lộ của Her2nu trong ung thư vú đã làm giảm phần lớn chi phí điều trị và bảo vệ sức khỏe của bệnh nhân. Bệnh viện Ung bướu vừa cho ra đời phòng xét nghiệm sinh học tế bào phân tử bằng phương pháp Fish (lai tại chỗ bằng huỳnh quang) giúp xác định chính xác những biểu lộ của gen Her2nu là âm tính hay dương tính, để giúp tiên đoán tình hình diễn biến bệnh nhằm đưa ra cách điều trị thích hợp. Trước đây, khi phát hiện bệnh nhân ung thư vú, các bác sĩ sẽ dùng phương pháp hóa mô miễn dịch để chẩn đoán biểu lộ của Her2nu hoặc gởi mẫu bệnh phẩm sang Malaysia để xác định chính xác (chi phí khoảng gần 4 triệu đồng), vì không phải bệnh nhân mắc ung thư vú nào cũng có biểu hiện của gen Her2nu. 

 
Tuy nhiên, phương pháp hóa mô miễn dịch chưa mang lại độ chính xác cao trong chẩn đoán. Nếu chẩn đoán sai có thể gây lãng phí rất nhiều tiền và ảnh hưởng đến sức khỏe bệnh nhân. Her2nu được xem là yếu tố tiên lượng xấu nếu xuất hiện trong ung thư vú và phải điều trị bằng phương pháp Herceptin (chi phí điều trị khoảng vài trăm triệu). Và bệnh nhân ung thư vú chỉ được áp dụng phương pháp Herceptin khi tất cả các điều trị thông thường (kể cả bằng xạ trị) đều đã vô nghĩa.

Fish làm phân tích chính xác sự có mặt hay không của Her2nu, giúp các bác sĩ quyết định đúng đắn trong việc dùng phương pháp điều trị nhắm trúng đích mang lại hiệu quả, bảo vệ sức khỏe, tránh lãng phí cho bệnh nhân…Thời gian làm chẩn đoán mới này kéo dài khoảng 48 tiếng với giá thành chừng 2,5 triệu (rẻ 1,5 triệu so với gởi mẫu bệnh phẩm sang Malaysia xác định). Bác sĩ Phạm Xuân Dũng - Phó Giám đốc Bệnh viện Ung bướu thành phố Hồ Chí Minh cho biết, sẽ áp dụng phương pháp Herceptin này với một số loại bệnh khác như: chẩn đoán HBV trong điều trị ung thư cổ tử cung, ung thư dạ dày… trong thời gian tới.
 

Các phương pháp chân đoán và điều trị ung thư tuyến tiền liệt

Với sự thay đổi lối sống và chế độ dinh dưỡng trong hơn 20 năm qua, bệnh ung thư tuyến tiền liệt ngày càng trở nên phổ biến ở đàn ông châu Á. Phương pháp điều trị bệnh rất đa dạng, nhưng y học cho tới nay vẫn không chỉ ra phương pháp nào thật sự là có lợi mà không làm hại cho bệnh nhân.

Chưa có phương pháp điều trị tối ưu 

Hiện nay, hằng năm ở Mỹ có khoảng 218.000 trường hợp ung thư tuyến tiền liệt mới. Kết quả thu được từ nghiên cứu của tổ chức "Nghiên cứu về chăm sóc sức khỏe và chất lượng cuộc sống" (RHQ) ở Mỹ, thông qua phân tích hàng trăm nghiên cứu về dịch tễ và lâm sàng đã mang lại sự bất ngờ cho giới chuyên môn: 8 phương pháp điều trị từ cắt bỏ tiền liệt tuyến, dùng phóng xạ, liệu pháp nội tiết... tới không chữa trị mà chỉ theo dõi đã đưa đến kết quả tương tự, không phương pháp nào tốt hơn phương pháp nào.
 

Nhiều nghiên cứu được đăng trên các tạp chí y khoa quốc tế hàng đầu thế giới trước đây cũng chỉ ra một bức tranh tương tự: với đại bộ phận bệnh nhân, ung thư tuyến tiền liệt phát triển rất chậm, bệnh nhân có thể sống chung với nó cả đời và họ sẽ chết với khối u nhưng vì bệnh khác. Một số rất ít bệnh nhân có khối u phát triển nhanh và có thể gây tử vong cho họ. Trong những trường hợp này các phương pháp điều trị hiện nay thường mang lại kết quả rất thấp, bởi vậy con số khoảng 28.000 người tử vong vì ung thư tuyến tiền liệt di căn hằng năm ở Mỹ rất ít thay đổi từ cuối những năm 1980 đến nay.

Việc sử dụng rộng rãi xét nghiệm chỉ số PSA (dấu hiệu của tế bào ung thư tuyến tiền liệt) để tầm soát bệnh đã dẫn đến tăng vọt số người phải làm sinh thiết tuyến tiền liệt và 2/3 số người này sinh thiết đã không phát hiện ra bệnh mà chỉ gây hao tổn về tiền của, đau đớn về tinh thần và thể chất (sinh thiết tuyến tiền liệt cũng có khả năng gây nhiều biến chứng). Số lượng bệnh nhân bị chẩn đoán và phải điều trị cũng đã tăng lên rất nhiều. Nghiên cứu của các bác sĩ thuộc Trung tâm y khoa đại học Erasmus, Hà Lan đã cho thấy chẩn đoán thừa bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt ở độ tuổi 54 - 85 ở Mỹ trong những năm gần đây vào khoảng 23 - 42%. Có nghĩa là cứ 100 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư tuyến tiền liệt thì có tới 23 - 42 người có thể đã sống trọn đời mà không bị bệnh ung thư tuyến tiền liệt làm phiền và không cần phải biết là họ có bệnh để lo âu và chữa trị. Hơn nữa, việc chuẩn đoán và điều trị này vẫn không làm giảm tỷ lệ tử vong do ung thư tuyến tiền liệt.
 

Trong báo cáo của RHQ, các tác giả đã tổng kết và phân tích số liệu từ 592 bài báo được đăng tải trên các tạp chí y khoa ở Mỹ và châu Âu về kết quả điều trị ung thư tuyến tiền liệt. Các phương pháp được so sánh là: liệu pháp làm lạnh (dùng nhiệt độ cực thấp để giết tế bào ung thư - cryotherapy), phẫu thuật cắt bỏ tuyến tiền liệt, dùng các thuốc phong tỏa androgen hoặc cảm thụ quan của nội tiết tố này, thiến (cắt tinh hoàn), đốt bằng sóng cao tần hoặc phóng xạ và "watchful waiting" - chỉ theo dõi mà không điều trị bằng phương pháp nào. Số liệu thu được đã cho thấy: không có phương pháp điều trị nào tốt hơn các phương pháp còn lại trong việc kéo dài cuộc sống cho bệnh nhân.

"Tác dụng phụ" trong điều trị

Các nghiên cứu trên cũng chỉ ra những nhược điểm của các phương pháp điều trị:

-Tất cả các phương pháp điều trị đặc hiệu đều gây tác dụng phụ, chủ yếu là vấn đề không kìm giữ được nước tiểu, rối loạn chức năng đại tràng (nhiều lần muốn đi đại tiện mà không được, giống bệnh kiết lỵ) và liệt dương. Đi tiểu són nhiều hơn 6 lần ở nhóm bệnh nhân điều trị bằng phẫu thuật so với bệnh nhân được điều trị bằng phóng xạ. Những người điều trị bằng phóng xạ bị kích thích đại tràng nhiều hơn 3 lần so với người được mổ cắt tuyến tiền liệt.

-Tỷ lệ bị không kìm được nước tiểu với bệnh nhân được phẫu thuật là 35%, được điều trị bằng phóng xạ là 12%, dùng liệu pháp nội tiết là 11%.

-Các bệnh nhân được điều trị đều có tỷ lệ liệt dương rất cao, 86% người điều trị bằng liệu pháp nội tiết, 58% người điều trị bằng phẫu thuật so với 33% người không được điều trị bằng phương pháp nào.

-Thêm liệu pháp nội tiết vào phác đồ điều trị sau khi phẫu thuật hoặc xạ trị đã không làm tăng tuổi thọ, mà còn làm tăng đáng kể các tai biến như chứng bốc hỏa, các triệu chứng của bệnh tim mạch, mệt mỏi, trầm cảm, sưng và đau tuyến vú, liệt dương...

-Từ báo cáo trên, chúng ta có thể thấy rằng: vấn đề chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư tuyến tiền liệt còn rất phức tạp và khoa học vẫn chưa có câu trả lời cho câu hỏi: Các phương pháp chữa bệnh hiện nay đem lại lợi ích hay làm hại bệnh nhân?          

Phương pháp mới chẩn đoán sớm ung thư phổi

Trong khuôn khổ một dự án của Viện nghiên cứu công nghiệp Đức, các nhà khoa học ở thành phố Leipzig, Đức vừa công bố một phương pháp mới rất đơn giản giúp sớm phát hiện bệnh ung thư phổi. Theo phóng viên TTXVN tại Đức, những bệnh nhân bị nghi mắc bệnh chỉ cần thở vào một chiếc máy. Sau đó, chiếc máy này sẽ phân tích độ ẩm của hơi thở và từ đó có thể xác định bệnh nhân có bị ung thư phổi hay không.

Phương pháp mới này giúp các bác sĩ dễ dàng hơn trong việc chẩn đoán sớm bệnh ung thư phổi với độ chính xác khá cao, khả năng chẩn đoán sai chỉ ở mức 12%. Dự kiến, trong năm 2009, phương pháp xét nghiệm mới này sẽ được ứng dụng nhiều trong thực tế. Cho đến nay, để chẩn đoán người bị nghi ung thư phổi, các bác sĩ thường dùng phương pháp chụp X-quang hoặc nội soi để xác định. Việc phát hiện sớm khối u ở phổi có ý nghĩa rất quan trọng đối với cơ hội điều trị bệnh, do ở giai đoạn đầu của bệnh rất khó phân biệt giữa viêm nhiễm kinh niên và ung thư. Ở Đức, mỗi năm có khoảng 50.000 người mắc bệnh ung thư phổi.
 

Điều trị ung thư

Ung thư có thể được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu, xạ trị liệu, miễn dịch trị liệu hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào vị trí và độ (grade) của khối u, giai đoạn của bệnh, cũng như tổng trạng của bệnh nhân. Một số điều trị ung thư thực nghiệm cũng đang được phát triển. Loại bỏ hoàn toàn khối u mà không làm tổn thương phần còn lại của cơ thể là mục tiêu điều trị. Đôi khi công việc này được thực hiện bằng phẫu thuật, nhưng khả năng xâm lấn ung thư đến các mô lân cận hay lan đến nơi xa ở mức độ vi thể thường hạn chế hiệu quả diều trị. Hiệu quả của hóa trị thì hạn chế bởi độc tính đối với các mô lành khác. Xạ trị cũng gây thương tổn đến mô lành. Bởi vì ung thư được xem như là tập hợp các bệnh lý, nên dường như chẳng bao giờ có một phác đồ điều trị ung thư đơn lẻ so với khả năng có một phác đồ điều trị duy nhất cho tất cả các bệnh lý nhiễm trùng.

Phẫu thuật

Nếu khối u còn khu trú, phẫu thuật là phương pháp thường được lựa chọn. Ví dụ có phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú ở ung thư vú, cắt bỏ tuyến tiền liệt ở ung thư tuyến tiền liệt. Mục đích của phẫu thuật là có thể cắt bỏ chỉ khối u đơn thuần hoặc toàn bộ cơ quan. Khi một tế bào ung thư phát triển thành một khối u khá lớn, việc chỉ cắt bỏ khối u đơn thuần dẫn đến tăng nguy cơ tái phát. Bờ của mô lành cũng thường được cắt bỏ để đảm bảo toàn bộ mô ung thư được loại bỏ. Bên cạnh việc cắt bỏ khối u nguyên phát, phẫu thuật cần thiết cho phân loại giai đoạn, ví dụ như xác định độ lan tràn của bệnh, xem thử đã có di căn đến các hạch bạch huyết vùng hay chưa. Phân loại giai đoạn cho biết tiên lượng và nhu cầu điều trị bổ sung. Đôi khi, phẫu thuật cần thiết cho kiểm soát triệu chứng, như chèn ép tủy sống hay tắc ruột. Đây được gọi là điều trị tạm thời.

Hóa trị liệu

Hóa trị liệu là điều trị ung thư bằng thuốc ("thuốc chống ung thư") có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư. Chúng can thiệp vào phân bào theo các cách khác nhau, ví dụ như sự sao chép DNA hay quá trình phân chia các nhiễm sắc thể mới được tạo thành. Hầu hết các dạng hóa trị đều nhắm vào các tế bào phân chia nhanh chóng và không đặc hiệu cho tế bào ung thư. Vì vậy, hóa trị có khả năng làm tổn thương các mô lành, đặc biệt là các mô có tần suất thay thế nhanh chóng (ví dụ như niêm mạc ruột). Những tế bào này thường tự sửa chữa sau khi hóa trị. Vì một số thuốc hoạt động tốt khi phối hợp với nhau hơn là dùng đơn độc, nên hai hay nhiều thuốc thường được kết hợp cùng lúc với nhau. Đó được gọi là "hóa trị phối hợp"; hầu hết các phác đồ hóa trị ở dạng phối hợp. Ví dụ như tác dụng hỗ trợ thuốc ung thư của mật gấu ngựa. Một kỹ thuật mới liên quan đến việc lấy mẫu mô của bệnh nhân trước khi hóa trị. Những mẫu mô này được kiểm tra để đảm bảo chúng không chứa tế bào ung thư. Mẫu mô này được phát triển nhờ vào kỹ thuật phát triển mô (tissue engineering) sau đó chúng được cấy vào lại trong cơ thể để thay thế cho mô đã bị tổn thương hay hủy hoại bằng cách nào đó bởi quá trình hóa trị liều cao. Một dạng khác của phương pháp này là dùng mẫu mô dị gen (allogenic) (lấy từ người cho khác) thay cho mô của chính bệnh nhân4.

Miễn dịch trị liệu

Miễn dịch trị liệu ung thư là sử dụng cơ chế miễn nhiễm chống lại khối u. Chúng được dùng trong các dạng ung thư khác nhau, như ung thư vú (trastuzumab/Herceptin®) và leukemia (gemtuzumab ozogamicin/Mylotarg®). Các chất đó là kháng thể đơn dòng nhằm chống lại các protein đặc trưng cho các tế bào ung thư, hay các cytokine điều hoà đáp ứng của hệ miễn dịch.

Xạ trị liệu
 

Xạ trị liệu (điều trị bằng tia X hay chiếu xạ) là sử dụng một dạng năng lượng (gọi là phóng xạ ion hoá) để diệt tế bào ung thư và làm teo nhỏ khối u. Xạ trị làm tổn thương hay hủy hoại các tế bào được điều trị ("mô đích") bằng cách làm tổn thương vật chất di truyền của chúng, khiến chúng không thể phát triển và phân chia. Mặc dù xạ trị làm tổn thương cả tế bào ung thư và tế bào lành, hầu hết các tế bào lành có thể hồi phục và hoạt động bình thường. Mục tiêu của xạ trị là làm tổn thương càng nhiều tế bào ung thư trong khi giới hạn tổn thương đối với mô lành lân cận.

Xạ trị có thể được dùng để điều trị hầu hết các loại u đặc, gồm ung thư não, vú, cổ tử cung, thanh quản, tụy, tiền liệt tuyến, da, cột sống, dạ dày, tử cung hay các sarcoma mô mềm. Xạ trị cũng có thể được dùng trong leukemia và lymphoma (ung thư của tế bào tạo máu và hệ thống bạch huyết). Liều xạ trị cho mỗi vị trí tùy thuộc vào một số yếu tố như loại ung thư và có hay không khả năng mô hay cơ quan xung quanh bị tổn thương bởi xạ trị.

Ức chế nội tiết tố

Sự phát triển của hầu hết các mô, bao gồm ung thư, có thể được gia tăng hay bị ức chế bằng cách cung cấp hay ngăn chặn các loại hormone nào đó. Điều này cho phép một phương pháp bổ sung trong điều trị nhiều loại ung thư. Các ví dụ thông thường của khối u nhạy cảm với hormone là một số loại ung thư vú, tiền liệt tuyến, và tuyến giáp. Việc loại bỏ hay ức chế estrogen (đối với ung thư vú), testosterone (ung thư tiền liệt tuyến), hay TSH (ung thư tuyến giáp) là phương pháp điều trị bổ sung quan trọng.

Kiểm soát triệu chứng

Mặc dù kiểm soát triệu chứng không là cách điều trị trực tiếp lên ung thư, nó vẫn được xem là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng sống của bệnh nhân, và giữ vai trò quan trọng trong quyết định áp dụng các điều trị khác trên bệnh nhân. Mặc dù mọi thầy thuốc thực hành đều có thể điều trị kiểm soát đau, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, xuất huyết và các vấn đề thường gặp khác ở bệnh nhân ung thư, chuyên khoa săn sóc tạm thời (palliative care) đã xuất hiện để đáp ứng nhu cầu kiểm soát triệu chứng ở nhóm bệnh nhân này.

Thuốc giảm đau (thường là các opioid như morphine) và thuốc chống nôn rất thường được sử dụng ở bệnh nhân có các triệu chứng liên hệ đến ung thư.

Các thử nghiệm điều trị

Thử nghiệm điều trị, cũng còn gọi là nghiên cứu điều trị, dùng để kiểm tra các phương pháp điều trị mới trên bệnh nhân ung thư. Mục đích của nghiên cứu này là đi tìm ra các phương pháp tốt hơn để điều trị ung thư và giúp đỡ bệnh nhân ung thư. Các thử nghiệm lâm sàng khảo sát nhiều loại điều trị như thuốc mới, phương pháp phẫu thuật hay xạ trị mới, phối hợp trị liệu mới, hoặc phương pháp điều trị mới như gene liệu pháp.

Thử nghiệm lâm sàng là một trong các giai đoạn cuối cùng của quá trình nghiên cứu ung thư cẩn thận và lâu dài. Việc tìm kiếm phương pháp điều trị mới bắt đầu trong phòng thí nghiệm, ở đó các nhà khoa học lần đầu triển khai và kiểm tra các ý tưởng mới. Nếu một hướng nghiên cứu có triển vọng, bước kế tiếp có thể là thử nghiệm điều trị trên động vật để xem nó ảnh hưởng thế nào đến ung thư trên cơ thể sống đồng thời xem thử độc tính của nó thế nào. Dĩ nhiên, các phương pháp điều trị có kết quả tốt trong phòng thí nghiệm hay trên động vật chưa hẳn đã là tốt trên người. Nghiên cứu được thực hiện trên bệnh nhân ung thư để xác định xem các phương pháp điểu trị hứa hẹn này có an toàn và hiệu quả hay không.
 

Các bệnh nhân tham gia có thể đựợc giúp đỡ về mặt cá nhân nhờ vào điều trị mà họ nhận được. Họ nhận được sự săn sóc cập nhật nhất từ các chuyên gia ung thư, và họ nhận được hoặc một phương pháp điều trị mới đang được thử nghiệm hoặc một phương pháp điểu trị tiêu chuẩn tốt nhất đang có cho bệnh lý ung thư của họ. Lẽ dĩ nhiên không có sự đảm bảo nào về các phương pháp điều trị mới hay chuẩn này mang lại kết quả tốt. Các phương pháp điều trị mới cũng có những nguy cơ không được xác định, nhưng nếu một phương pháp điều trị mới chứng minh được hiệu quả hay hiệu quả hơn phương pháp chuẩn, các bệnh nhân nghiên cứu có thể nằm trong số những người đầu tiên hưởng được lợi ích này.

Y học thay thế và bổ sung

Y học thay thế và bổ sung (complementary and alternative medicine - CAM) là nhóm phong phú các hệ thống săn sóc sức khỏe và y tế, thực hành và sản phẩm vốn không được xem là có hiệu quả bởi các chuẩn mực của y học quy ước. Một số phương pháp điều trị không quy ước được dùng "bổ sung" cho điều trị quy ước, nhằm tạo sự thoải mái và nâng cao tinh thần cho bệnh nhân. Một số phương pháp điều trị không quy ước khác được dùng thay thế điều trị quy ước với hy vọng chữa lành ung thư.

Các phương pháp bổ sung thông thường như cầu nguyện hay các biện pháp tâm lý như "tưởng tượng." Nhiều người cảm thấy phương pháp này mang lợi ích cho họ, nhưng hầu hết không chứng minh được tính khoa học và vì thể phải đối diên với sự hồ nghi. Các phương pháp bổ sung khác bao gồm y học cổ truyền như Đông y (thuốc nam/thuốc bắc).

Nhiều biện pháp điều trị thay thế đã được sử dụng trong ung thư ở thế kỷ qua. Tính hấp dẫn của trị liệu thay thế đến từ các nguy cơ gây chán nản với điều trị, chi phí và tác dụng phụ của điều trị quy ước, hoặc triển vọng chữa lành thấp. Những người đề nghị các phương pháp này không thể hay không muốn chứng minh tính hiệu quả bằng các tiêu chuẩn quy ước. Các điều trị thay thế bao gồm chế độ ăn đặc biệt hoặc bổ sung thành phần thức ăn (ví dụ "chế độ ăn nho" hay điều trị vitamin liều cao), các dụng cụ điện (ví dụ "các máy xoa bóp"), các chất có công thức đặc biệt (như laetrile), sử dụng không theo quy ước các thuốc quy ước (như insulin), xổ ruột hay thụt tháo, các thao tác vật lý trên cơ thể. Một vài phương pháp điều trị này mang tính lừa dối hay xảo thuật. Tóm lại chúng được đánh giá bởi các giới hồ nghi như phương pháp lang vườn điều trị ung thư. Một danh sách có giải thích các phương pháp điều trị này có sẵn tại Quackwatch. Hầu hết các thầy thuốc chống lại việc sử dụng các phương pháp này đơn độc trong điều trị các bệnh lý có khả năng tử vong như ung thư.

Nghiên cứu ung thư là nỗ lực khoa học nhằm tìm hiểu quá trinh bệnh lý và phát hiện các phương pháp điều trị có thể áp dụng được. Trong khi ung thư tăng theo cấp lũy tiến từ thập niên cuối của thế kỷ 20, các phương pháp điều trị mới triệt để chỉ phát hiện và giới thiệu một các từ tốn. Ức chế men tyrosine kinases (imatinibgefitinib) vào cuối thập niên 1990 được xem như là bước đột phá lớn, chúng can thiệp một cách đặc hiệu vào protein đặc hiệu của khối u. Kháng thể đơn dòng chứng tỏ là một tiến bộ lớn khác trong điều trị ung thư.

Phòng bệnh ung thư

Phòng ngừa ung thư là các biện pháp tích cực nhằm đề phòng, ngăn chặn và giảm tỷ lệ ung thư. Điều này có thể thực hiện bằng cách tránh các tác nhân sinh ung thư hay thay đổi quá trình chuyển hóa của chúng: thay đổi lối sống và chế độ ăn uống nhằm ngăn ngừa các yếu tố gây ung thư hoặc can thiệp bằng y khoa (hóa dự phòng, điều trị sang thương tiền ác tính). Có nhiều hứa hẹn phòng ngừa ung thư rút ra từ các nghiên cứu dịch tễ học quan sát. Các nghiên cứu này chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố lối sống có thể tác động được hay phơi nhiễm môi trường với các bệnh ung thư đặc biệt. Các thử nghiệm ngẫu nhiên có kiểm soát thực hiện trên các gợi ý can thiệp rút ra từ nghiên cứu dịch tễ và phòng thí nghiệm đã đưa ra bằng chứng về giảm tỉ lệ mới mắc và tỉ lệ tử vong.

Các ví dụ về các nguy cơ có thể tác động được gồm có uống rượu (phối hợp với tăng nguy cơ ung thư miệng, thực quản, vú và các ung thư khác), không hoạt động chân tay (phối hợp với tăng nguy cơ ung thư đại tràng, vú, và có thể các ung thư khác), tình trạng béo phì (phối hợp với ung thư đại tràng, vú, nội mạc tử cung, và có thể các ung thư khác). Dựa vào các bằng chứng dịch tễ học, ngày nay người ta cho rằng tránh uống rượu quá mức, tích cực hoạt động thể lực và duy trì trọng lượng cơ thể thích hợp có thể góp phần làm giảm nguy cơ một số ung thư; tuy nhiên khi so sánh với phơi nhiễm thuốc lá, các phương pháp này có tính hiệu quả còn khiêm tốn và độ tin cậy của bằng chứng còn thấp. Các yếu tố về lối sống và môi trường khác được biết có ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư (có lợi hay hại) là hoạt động tình dục hay sinh sản, sử dụng hormone ngoại sinh, tiếp xúc với các phóng xạ ion hoá và tia cực tím, phơi nhiễm với hóa chất và nghề nghiệp nào đó, các tác nhân nhiễm trùng.

Chế độ ăn uống và ung thư

Chế độ ăn uống các thực phẩm chứa hóa chất (chất bảo quản, thuốc trừ sâu, phân bón hóa học...) làm tăng nguy cơ gây ung thư. Thói quen ăn uống thường giải thích cho sự khác biệt về tỷ lệ ung thư ở các nước (ví dụ như ung thư dạ dày hay gặp hơn ở Nhật Bản, trong khi ung thư đại tràng hay gặp hơn ở Mỹ). Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, người nhập cư cũng phát triển nguy cơ ung thư giống như ở đất nước mới đến của họ, gợi ý có sự kết nối giữa ăn uống và ung thư hơn là cơ sở về di truyền. Dù thường xuyên có các báo cáo về các chất đặc biệt (bao gồm cả thức ăn) có tác động lợi hay hại đến nguy cơ ung thư, chỉ một vài trong số chúng thiết lập được mối liên quan đến ung thư. Các báo cáo này dựa trên các nghiên cứu trong môi trường nuôi cấy tế bào hay động vật. Các lời khuyên về sức khỏe cộng đồng không nên dựa vào cơ sở các nghiên cứu này cho đến khi chúng được xác định trên các thử nghiệm quan sát (hay đôi khi là thử nghiệm can thiệp tiền cứu) trên người.

Trường hợp của beta-carotene cho chúng ta ví dụ về sự cần thiết của thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên. Các nhà dịch tễ học nghiên cứu cả hai nồng độ trong thức ăn và huyết thanh thấy rằng nồng độ cao của beta-carotene, một tiền chất của vitamin A, có liên quan đến hiệu quả phòng bệnh, làm giảm nguy cơ ung thư. Hiệu quả này thật sự đặc biệt mạnh trong ung thư phổi. Giả thuyết này đã dẫn đến một loạt các thử nghiệm ngẫu nhiên lớn ở Phần LanMỹ (nghiên cứu CARET) trong suốt hai thập niên 19801990. Nghiên cứu này cung cấp cho khoảng 80.000 người hút thuốc lá hoặc đã từng hút thuốc lá các bổ sung hằng ngày về beta-carotene hoặc placebo. Ngược lại với mong đợi, những kiểm tra này cho thấy bổ sung beta-carotene không có ích lợi trong giảm tỷ lệ mắc ung thư phổi và tỷ lệ tử vong. Thực ra, nguy cơ ung thư phổi tăng nhẹ, nhưng có ý nghĩa, ở người hút thuốc lá, khiến nghiên cứu kết thúc sớm.

Các chất hóa dự phòng khác

Sử dụng hằng ngày tamoxifen, một chất điều hoà chọn lọc thụ thể estrogen, cho đến 5 năm, đã tỏ ra làm giảm nguy cơ phát triển ung thư vú ở phụ nữ nguy cơ cao khoảng 50%. Axít cis-retinoic cũng tỏ ra giảm nguy cơ các ung thư nguyên phát tái phát ở các bệnh nhân ung thư nguyên phát vùng đầu - cổ. Finasteride, là chất ức chế men 5-alpha reductase, có thể hạ thấp nguy cơ ung thư tiền liệt tuyến. Các ví dụ khác về thuốc tỏ ra có hứa hẹn trong hóa dự phòng gồm thuốc ức chế men COX-2 (ức chế men cyclooxygenase liên quan đến tổng hợp prostaglandin tiền viêm).

Vaccine trong phòng bệnh ung thư

Ngày nay các nỗ lực đáng kể trong việc phát triển vaccine (để dự phòng các tác nhân lây nhiễm sinh u, cũng như phát động đáp ứng miễn dịch chống lại các epitope đặc hiệu cho ung thư) và để phát triển gene tri liệu đối với các cá thể có các đột biến di truyền hay đa hình thái khiến họ đối diện nguy cơ ung thư cao. Hiện tại không có vaccine nào được sử dụng, và hầu hết các nghiên cứu vẫn còn ở giai đoạn bắt đầu.

Xét nghiệm di truyền và khi đối diện với ung thư

Xét nghiệm di truyền được dùng cho cá thể nguy cơ cao, nhằm tăng cường giám sát, hóa dự phòng, hay phẫu thuật để giảm nguy cơ cho các đối tượng có xét nghiệm dương tính. Hiện tại xét nghiệm này đã có sẵn cho vài loại đột biến gene có liên quan đến ung thư.

Nhiều tổ chức địa phương cung cấp các dịch vụ thực hành và hỗ trợ khác nhau cho các bệnh nhân ung thư. Hỗ trợ gồm các hình thức nhóm hỗ trợ, tham vấn, khuyên nhủ, hỗ trợ tài chính, vận chuyển đi lại trong điều trị, hay các thông tin về ung thư. Các tổ chức lân cận, các người cung cấp các dịch vụ y tế địa phương, hay các bệnh viện khu vực là nơi tốt để tìm kiếm hỗ trợ. Mặc dù có một số người lưỡng lự trong việc tìm kiếm tham vấn, các nghiên cứu chỉ ra rằng có người nào đó để trao đổi giúp giảm căng thẳng tinh thần và giúp họ về mặt tinh thần và thể chất. Tham vấn cũng có thể giúp hỗ trợ tình cảm đối với bệnh nhân ung thư và giúp họ hiểu tốt hơn bệnh lý của họ. Các dạng tham vấn khác nhau là cá nhân, nhóm, gia đình và tự giúp nhau (đôi khi được gọi là tham vấn đồng hành), thăm viếng người quá cố, bệnh nhân với bệnh nhân và vấn đề tình dục. Nhiều tổ chức chính phủ và từ thiện được thành lập để giúp đỡ các bệnh nhân đối diện với ung thư. Các tổ chức này thường liên quan đến dự phòng ung thư, điều trị ung thư và nghiên cứu ung thư. Ví dụ như: Hội ung thư Mỹ, Tổ chức ung thư BC, Tổ chức xoa dịu ung thư Macmillan, Nghiên cứu ung thư Anh, Hội ung thư Canada, Tổ chức quốc tế nghiên cứu ung thưViện ung thư quốc gia (Mỹ).

Tác động đối với xã hội

Ung thư có tiếng là căn bệnh chết chóc. Tuy nhiên điều này chỉ đúng cho một vài dạng cụ thể nào đó. Một số loại ung thư có tiên lượng còn tốt hơn các bệnh không ác tính như suy timtai biến mạch máu não. Các bệnh lý ác tính diễn tiến và lan tỏa có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng sống của bệnh nhân, và nhiều điều trị (như hoá trị) có thể có tác dụng phụ nặng nề. Ở giai đọan tiến triển ung thư, nhiều bệnh nhân các săn sóc tăng cường, và ảnh hưởng đến người thân và bạn bè. Giải pháp săn sóc tạm thời có thể là săn sóc điều dưỡng nội trú vĩnh viễn hay ngắn hạn.

 

 

Ngày 25/12/2009
Ths.Bs.Huỳnh Hồng Quang
(Tổng hợp)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích