TRANG CHỦ | Chủ nhật, ngày 24/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Nói chung, thể này thường hay ảnh hưởng đến các vùng tiếp xúc, phơi nhiễm mầm bệnh là vùng cánh tay, đầu, cổ. Nhiễm trùng có thể lan rộng khắp cơ thể lên đến 20% số ca không điều trị. Thể này bắt đầu với những thương tổn như nốt sưng nhô lên cao và lớn dần lên trong vòng 24-48 giờ để thành một nốt ác tính ("malignant pustule") tại vị trí nhiễm trùng. Vết sẩn, loét (khoảng 2-3 cm hoặc 1 inch) tròn và sau đó có góc cạnh. Vết loét này không đau. Vùng trung tâm của nhiễm trùng được bao quanh bởi các mụn nước nhỏ chứa đầy máu dịch hoặc dịch trong chứa nhiều vi khuẩn bên trong. Một dạng vảy đen ở vị trí loét xuất hiện trong vòng 7-10 ngày và kéo dài 7-14 ngày trước khi tách ra khỏi. Vùng xung quanh có thể sưng phồng và đau và có thể kéo dài sau khi hình thành vảy. Các vết lở loét ảnh hưởng lên cổ có thể gây sưng phồng và có thể góp phần làm khó thở. 5.2. Bệnh than đường tiêu hóa (Intestinal anthrax)Bệnh than thể này rất khó nhận ra, sốc và tử vong có thể xảy ra trong vòng 2-5 ngày sau khi khởi bệnh. Việc nuốt các bào tử có thể gây bệnh than thể tiêu hóa 2-5 ngày sau đó. Người bị bệnh than thể tiêu hóa có thể biểu hiện nôn, nôn ra máu, mệt mỏi, chán ăn, đau bụng, tiêu lỏng ra máu kèm theo sốt. | Bệnh than đường tiêu hóa là một thể bệnh nặng. Sau khi nuốt hoặc ăn thịt động vật mắc bệnh có chứa bào tử, có thể xảy ra các triệu chứng sốt, đau bụng lan tỏa kèm hồi ứng, táo bón hoặc tiêu chảy. Phân có màu bã cà phê hoặc lẫn máu. Sau khi khởi phát 2-5 ngày, có thể xuất hiện cổ trướng kèm với giảm đau bụng. Dịch cổ trướng có thể trong hoặc có mủ và khi cấy hoặc nhuộm Gram có thể phát hiện được trực khuẩn B. anthracis. Khảo sát mô học có thể thấy trực khuẩn ở mô bạch huyết trong niêm mạc hoặc dưới niêm mạc ở vùng tổn thương; niêm mạc bị phù, hoại tử và thâm nhiễm tế bào viêm. Ngoài ra, còn thấy bằng chứng viêm bạch mạch mạc treo. Biến chứng nặng là chảy máu, rối loạn nước-điện giải và sốc. Bệnh nhân chết do thủng ruột hoặc nhiễm độc ngoại độc tố. Nếu cơ may sống sót, triệu chứng thường lui dần trong vòng 10-14 ngày (Alizad A và cs., 1995). Thể bệnh than thể tiêu hóa do ăn các chế phẩm thịt chứa mầm bệnh than. Thể bệnh này rát khó chẩn đoán vì dễ nhầm với một số bệnh nhiễm trùng khác. Nó có thể sinh ra loét miệng, họng. một người có tiền sử ăn các sản phẩm có mầm bệnh sẽ cảm thấy đau họng hoặc khó nuốt. Thể này có tỷ lệ tử vong cao. 5.3. Thể bệnh họng-thanh quản (Oropharyngeal anthrax): Thể họng - thanh quản ít gặp hơn thể tiêu hóa, nhưng cũng do nuốt phải bào tử bệnh than. Những triệu chứng ban đầu gồm phù nề và sưng hạch bạch huyết vùng cổ, nuốt đau và khó thở. Có thể nhìn thấy tổn thương ở họng dưới dạng vết loét có màng giả. Thể bệnh này nhẹ và có tiên lượng tốt hơn thể tiêu hóa. Nuốt các bào tử dẫn đến bệnh than thể này sau 2-7 ngày sau khi phơi nhiễm bệnh. Người bị thể này có thể loét họng, thanh quản một bệnh hoặc khó nuốt, có thể tử vong vì họng sưng phù và khó thở. 5.4. Bệnh than đường hô hấp (Inhalational anthrax)Thể bệnh này hiếm gặp trong tự nhiên nhưng có thể có tần suất cao trong trường hợp bào tử bệnh than được dùng làm vũ khi sinh học. Khi bào tử bệnh than được dùng dưới dạng khí dung, nó có thể lan xa trong khí quyển và thâm nhập vào đường hô hấp và gây bệnh với tỉ lệ tử vong cao. Trong vụ dịch do tai nạn tại Thể bệnh hô hấp hay thể hít (inhalational anthrax) bắt đầu đột ngột, 1-60 ngày (thường 1 - 3 ngày) sau khi hít một lượng lớn bào tử vi khuẩn than vào hô hấp. Kích thước các bào tử là đặc biệt quan trọng khi chúng đi đến và gây bệnh. Các bào tử quá nhỏ sẽ bị hít vào nhưng rồi ngay tức khắc chúng bị tống ra và không duy trì trong phổi để gây bệnh. Các bào tử quá lớn sẽ không tồn tại trong không khí khi chúng ly giải và rơi trên đất và do vậy không bao giờ hít vào vào vị trí ban đầu. kích thước của bào tử lý tưởng cho vũ khí sinh học là đường kính 1-5mm. Một người có thể ban đầu không có triệu chứng hô hấp hoặc khó thở đặc hiệu nhưng có thể sốt nhẹ và ho không rõ ràng. Bệnh nhân có thể đau ngực sớm và cải thiện một cách tạm thời trước khi diễn tiến nhanh chóng sang vấn đề thở nghiêm trọng. Thể hít nghiêm trọng biểu hiện sốt cao, khó thở, thở nhanh, da tái xanh và toát nhiều mồ hôi, nôn ra máu và đau ngực có thể rất nặng giống như cơn đau tim. Thể này thường gây nên tử vong khi độc tố sinh ra bởi vi khuẩn quá mức đào thải của hệ thống tuần hoàn. Bệnh than thể phổi hay thể hít do hít vào các bào tử vào đường thở vào trong phổi. có thể do người đó cầm các thực phẩm động vật chứa mầm bệnh à chuyển thành thể bệnh này, thể này còn gọi là bệnh Woolsorter (“woolsorter's disease”). Một khi hít vào, vi khuẩn nhân lên và có thể lan rộng các độc tố của chúng vào trong dòng máu và đi đến nhiều cơ quan khác. Nhiễm trùng có thể đến gan, lách và thận, do đó chúng có thể gây nhiễm trùng nặng toàn thân và tử vong. Thể bệnh này còn gọi là nhiễm trùng huyết sau khi bị thể hít. 5.5. Thể viêm màng não (Anthrax meningitis): Thể bệnh này có thể gây biến chứng bất kỳ hình thức nào và lan rộng khắp hệ thống thần kinh trung ương và não bộ. Ðây là một biến chứng hiếm gặp song rất dễ tử vong. Ðường xâm nhập của trực khuẩn than thường thấy nhất là qua da, nhưng cũng có thể xảy ra với thể bệnh ở đường tiêu hóa và ở hô hấp. Bệnh nhân hấu như sẽ tử vong trong vòng 1-6 ngày sau khi khởi phát, tuy được điều trị kháng sinh tích cực. Một số ít trường hợp sống sót được báo cáo khi điều trị phối hợp kháng độc tố, prednisone hoặc với cả hai. Ngoài các triệu chứng điển hình như viêm màng não mủ, còn có triệu chứng đau cơ, kích động, co giật hoặc hôn mê. Tình trạng thần kinh suy sụp nhanh và sau đó là tử vong. Tổn thương bệnh học là viêm màng não xuất huyết với phù lan rộng, thâm nhiễm tế bào viêm và có trực khuẩn gram (+) ở màng não. Dịch não tủy thường có máu và vi khuẩn. 5.6. Thể nhiễm trùng huyết (Septicemic anthrax): Nhiễm trùng bệnh than thể này ám chỉ đến sự nhiễm trùng trực khuẩn than quá mức trong toàn bộ tuần hoàn. Điều này có thể là một biến chứng của thể hít ở trên. Các cơ quan nội tạng có thể chuyển màu đen với sự lan rộng nhiễm trùng trong máu. Vi khuẩn nhân lên trong máu và tràn lan gây nhiễm cho nhiều tế bào hồng cầu. Thuật ngữ bệnh than xuất phát từ tiếng Hy Lạp có nghĩa là than đá (coal) và mô tả các tổn thương do trực khuẩn thanh tấn công có chuyển màu đen. Hầu hết thể bệnh than nhiễm trùng máu xảy ra sau thể hít. Số vi khuẩn ly giải từ gan và lách vào trong phổi quá mức chống đỡ của cơ thể và vì thế sinh ra một lượng lớn độc chất gây chết người (lethal toxin) biểu hiện lâm sàng là sốc và tử vong. 6. Tính cảm nhiễm và miễn dịchChưa rõ ràng. Hiện có một số bằng chứng về nhiễm thể ẩn ở người thường xuyên tiếp xúc với các tác nhân gây bệnh; mắc bệnh lần thứ 2 có thể xảy ra nhwung hiếm gặp.7. Chẩn đoán7.1. Chẩn đoán về mặt lâm sàng Tổn thương trên da sẽ chuyển màu đen. Nếu khi đó bạn không bị đau tại vết loét thì có thể nghi ngờ do nhiễm trực khuẩn than khi đó đi khám bác sĩ sẽ lấy bệnh phẩm nhỏ dịch tổn thương và sẽ nuôi cấy cho phát triển trong môi trường đặc biệt tại phòng xét nghiệm. Các mẫu bệnh phẩm này sẽ được xem dưới kính hiển vi, vi khuẩn than sẽ phân biệt với các vi khuẩn khác. Nếu bệnh than được nghi ngờ, nhân viên phòng xét nghiệm sẽ thận trọng với các mẫu này vì chúng ta nên xem đó là mối nguy hiểm sinh học (biohazard). Bệnh than không phải là bệnh lây nhiễm từ người sang người, song các quy trình thực hành chuẩn của bệnh viện về vệ sinh, được biết là các quy định chung toàn cầu nhằm khuyến cáo tránh lây nhiễm lan rộng sang đối tượng khác. Nếu bị bệnh than thể ngoài da và có biểu hiện sốt và các triệu chứng khác trên khắp cơ thể, bác sĩ có thể kiểm tra máu của bệnh nhân để tìm vi khuẩn. Nếu bác sĩ nghĩ rằng bệnh nhân bị thể hít, sẽ cho bệnh nhân chụp X-quang hoặc CT-scan. Các xét nghiệm khác có thể thực hiện thêm, như chọc dò tủy sống và cần thiết phải nhập viện theo dõi và điều trị. 7.2. Chẩn đoán về mặt xét nghiệm+ Xét nghiệm vi khuẩn họcBacillus anthracis thuộc nhóm trực khuẩn B. cereus (gồm 4 loài: B. cereus, B. anthracis, B. thuringensis, và B. mycoides), tất cả đều kháng penicilline, trừ B. anthracis. Nhóm trực khuẩn này thường được xem là vi khuẩn vấy nhiễm nếu không có yêu cầu xét nghiệm định loại chuyên biệt. Trên môi trường thạch máu, khuẩn lạc B. anthracis có màu trắng đến xám, đục như kính mờ, không gây tan huyết (Parry JM và cs., 1983). Có thể phân lập được vi khuẩn trong máu bệnh nhân ở giai đoạn muộn, trong dịch cổ trướng, dịch màng phổi, dịch não tủy (nếu có viêm màng não).Trong trường hợp nhiễm khuẩn nặng, bệnh nhân thườing chết trước khi có kết quả cấy máu, nên cần chẩn đoán vi khuẩn học sớm bằng cách dùng que thử API50 CH và API20E để phát hiện trực khuẩn (Logan NA và cs., 1985). Do tiềm năng kháng thuốc, mọi trực khuẩn đã phân lập cần được làm kháng sinh đồ. Lấy mẫu bệnh phẩm: đối với thể da thì lấy dịch bọng nước trong giai đoạn bọng nước, lấy dịch dưới vảy trong giai đoạn đóng vảy; thể phổi - hít lấy bệnh phẩm là đờm và máu; Thể tiêu hóa lấy bệnh phẩm là phân và máu; Phương pháp xét nghiệm: + Phương pháp nhuộm Gram: biểu hiện là vi khuẩn hình viên gạch, gram (+); + Phương pháp phân lập: cấy bệnh phẩm lên môi trường thạch. Vi khuẩn than mọc thành khuẩn lạc xù xì (khuẩn lạc R); + Phương pháp gây bệnh cho động vật thực nghiệm. + Xét nghiệm huyết thanh miễn dịch họcKháng nguyên của B. anthracis là các protein của lớp vỏ và các thành phần của ngoại độc tố. Dấu hiệu chỉ điểm đáng tin cậy nhất là tăng hiệu giá kháng thể với kháng nguyên bảo vệ và các thành phần của vỏ bọc khi xét nghiệm bằng kỹ thuật ELISA. Theo Sirisanthana và cộng sự (1988), các nghiên cứu huyết thanh học tại Thái Lan đo hiệu giá kháng thể bằng ELISA cho thấy độ nhạy với các dấu ấn huyết thanh như sau: 72% đối với kháng nguyên bảo vệ, 95-100% đối với kháng nguyên vỏ bọc, 42% đối với yếu tố chết, và 26% đối với yếu tố phù. Xét nghiệm vi ngưng kết hồng cầu gián tiếp cho kết quả tương tự như ELISA nhưng có nhược điểm là hồng cầu mẫu có tuổi thọ ngắn, khả năng lặp lại hạn chế, và mất thời gian lâu. Xét nghiệm miễn dịch đối với ngoại độc tố bệnh than chỉ có giá trị dịch tễ học, ít có giá trị chẩn đoán trong lâm sàng, vì kháng thể xuất hiện muộn trong diễn tiến bệnh. Tuy vậy, test da với anthracin (chất trích từ một chủng B. anthracis giảm độc lực) có thể giúp chẩn đoán được 82% số trường hợp bệnh than sau khi khởi bệnh 1-3 ngày (Shlyakhov EN & Rubinstein E, 1996). Hiện nay, kỹ thuật chẩn đoán mới tập trung vào việc sử dụng phản ứng khuyếch đại chuỗi gen (PCR) để khuyếch đại? các gen đặc hiệu hoặc các dấu ấn plasmid độc lực đặc hiệu của B. anthracis. Kỹ thuật này rất có ích để chẩn đoán sớm trên lâm sàng. Chẩn đoán phân biệt với một số bệnh truyền nhiễm do tác nhân khácBảng 1. Chẩn đoán phân biệt các biểu hiện lâm sàng của bệnh than
8. Điều trị 8.1. Thái độ điều trịVì bệnh than là bệnh do nhiễm độc nên hiện nay có đề nghị dùng liệu pháp kháng độc tố. Các thử nghiệm dùng kháng sinh trên động vật ở các giai đoạn bệnh khác nhau đã phát hiện được nguyên tắc "không quay lại" của bệnh này, nghĩa là một khi tình trạng nhiễm bệnh phát triển đến một mức nào đó, thì con vật sẽ chết cho dù có diệt sạch vi khuẩn, và những con vật được tiêm toxin gây chết tinh khiết sẽ chết y hệt như những con vật nhiễm bệnh tự nhiên (Hanna PC và cs., 1993; Hanna PC và cs., 1994). Mặc dù vậy. hiện vẫn chưa có chế phẩm kháng độc tố nào được sản xuất. Penicillin là kháng sinh chọn lọc đối với tác nhân gây bệnh, và trực khuẩn bệnh than trong thiên nhiên rất hiếm khi đề kháng với Penicillin. Ngoài ra, B. anthracis cũng nhạy cảm với đa số kháng sinh thường dùng, ngoại trừ một số thuốc đã có bằng chứng kháng thuốc in vitro như Cefuroxime, Cefotaxime, Ceftazidime, Aztreonam, Trimetroprim / Sulfamethoxazole. Cần dùng thuốc đường tĩnh mạch đối với thể tiêu hóa, thể hô hấp, thể màng não, hoặc thể ngoài da nhưng có biểu hiện toàn thân, phù lan rộng hoặc tổn thương ở vùng dầu, cổ. Kháng sinh cần được dùng liên tục ít nhất là 14 ngày sau khi không còn triệu chứng. Nếu nghi ngờ kháng penicillin hoặc Doxycylin, hoặc không thử được độ nhạy cảm, thì nên dùng Ciprofloxacin. Theo khuyến nghị mới đây (26/10 /2001) của Trung tâm Kiểm soát và phòng chống bệnh (CDC) Mỹ, trong điều trị bệnh than thể hô hấp, ngay từ đầu nên dùng Ciprofloxacin hoặc Doxycyclin cộng với một hoặc hai kháng sinh khác có hoạt tính in vitro với B. anthracis. Chống chỉ định cắt lọc vết loét hoại tử. Cần điều trị nâng đỡ để?ngăn ngừa sốc nhiễm độc và rối loạn nước-điện giải, bảo đảm thông thoáng đường thở. Cách tốt để điều trị bệnh than là bằng kháng sinh. Mục đích của kháng sinh là phá sự nhiễm trùng và ngăn ngừa biến chứng cũng như tử vong. Nhiều loại kháng sinh có hiệu quả chống lại trực khuẩn B. anthracis và các loại kháng sinh sau:Doxycycline (Vibramycin), Penicillin, Amoxicillin (Trimox, Amoxil, Biomox), Ampicillin (Marcillin, Omnipen, Polycillin, Principen, Totacillin), Ciprofloxacin (Cipro), Levofloxacin (Levaquin). Gatifloxacin (Tequin), Chloramphenicol (Chloromycetin). Thể bệnh nặng có thể cho thuốc đường tĩnh mạch. Điều trị có thể tiếp tục trong vài tuần. Người bệnh phơi nhiễm với trực khuẩn than có thể cho thuốc dự phòng dùng trong 60 ngày. 8.2. Dự phòng & điều trịKháng sinh có thể chữa khỏi bệnh Than nếu được chẩn đoán sớm và dùng thuốc kịp thời.Song, nhiều người không biết mình mắc bệnh cho đến khi triệu chứng và diễn biến bệnh quá muộn. Vaccine phòng bệnh Than hiện đã sẵn có để dự phòng trong quân đội và nhóm người có nguy cơ cao. Một vaccine chống bệnh than có sẵn nhưng không phải lúc nào cũng đáp ứng. Nó bao gồm một loạt 6 tiêm chủng trong vòng 18 tháng. Sau đó, mũi booster cho mỗi năm, đặc biệt đối với những người phơi nhiễm các động vật hoặc các thực phẩm chứa mầm bệnh than. Một xét nghiệm da có thể xác định bệnh nếu vaccine có hoạt tính. Để ngăn ngừa các bào tử B. anthracis ly giải trong không khí sau khi một đợt khủng bố sinh học nghi ngờ, bác sĩ của bạn có thể kê đơn Ciprofloxacin hoặc Doxycycline trong 60 ngày. Các kháng sinh khác có thể sử dụng khi có dấu hiệu các thuốc khác hiệu quả hơn. -Người tiếp xúc với bào tử nhưng chưa có triệu chứng, cần uống phòng Doxycycline hoặc Ciprofloxacine ít nhất trong 6 tuần. Hiện nay được khuyến cáo dùng kháng sinh phòng bệnh trong 60 ngày; -Vaccine ngừa bệnh Than hiện dùng tại Mỹ là một chế phẩm của kháng nguyên bảo vệ được hấp phụ với hydroxid nhôm (gọi tắt là AVA_anthrax vaccine adsorbed). Ðối với người lớn, cần tiêm dưới da liều 0.5ml và tiêm nhắc lại sau 2 tuần, 4 tuần rồi 6 tháng. Sau đó, phải tiêm nhắc lại hàng năm. Có thể tiêm AVA đồng thời với uống thuốc dự phòng đối với người đã tiếp xúc với mầm bệnh. Tại Nga, vaccine được sử dụng rộng rãi cho người và gia súc là loại được sản xuất từ bào tử còn sống giảm độc lực (Shlyakhov EN và Rubinstein E., 1994); -Biện pháp tiệt khuẩn ở những nơi nhiễm bào tử bệnh Than là dùng formaldehyd xông hơi; Bảng 2. Khuyến nghị điều trị dự phòng sau tiếp xúc
Theo Inglesby và cộng sự và hướng dẫn của Trung tâm Kiểm soát và phòng chống bệnh tật Mỹ (2001). Do có thể có nguy cơ kháng thuốc ở các chủng vi khuẩn dùng trong khủng bố sinh học, nên phải dùng Ciprofloxacin ngay từ đầu, mặc dù thuốc này không được khuyên dùng trên phụ nữ có thai. Tương tự, Doxycycline có thể có tác dụng phụ trên thai phụ và trẻ em, nhưng vẫn được khuyến cáo dùng từ đầu nếu vì một lý do nào đó mà không thể sử dụng được Penicilline, Ciprofloxacin (dị ứng, kháng thuốc, hết thuốc). Tổng thời gian điều trị dự phòng là có thể kéo dài đến 60 ngày Bảng 3. Thuốc kháng sinh dùng trong bệnh Than
Phần lớn các chủng B. anthracis đều kháng Cefuroxim in vitro. Ðối với thể tiêu hóa, thể hô hấp và thể màng não nên dùng kháng sinh đường tĩnh mạch. Nếu bệnh nhân chưa tiêm chủng, nên bắt đầu tiêm vaccine, đặc biệt trên các nhóm nguy cơ cao. 9. Tiên lượng và theo dõi bệnh Về tiên lượng, nếu bệnh nhân được điều trị sớm thì thể ngoài da sẽ nhanh chóng hồi phục. thể hầu họng hoặc thể tiêu hóa cho hiệu quả điều trị kém hơn và những bệnh nhân bị thể hít sẽ có hậu quả tệ nhất. Khoảng ½ nạn nhân trong mùa thu năm 2001 bị bệnh than đã chết. Về theo dõi bệnh nhân, với thể bệnh ngoài da, nếu điều trị có thể cho thuốc về nhà uống. Sẹo có thể tồn tại vĩnh viễn ngay vùng tổn thương. Đối với các thể hít, tiêu hóa, viêm màng não hoặc thể nhiễm trùng huyết cần phải nhập viện điều trị. 10. Các biện pháp phòng chống dịch 10.1. Biện pháp dự phòng: Tuyên truyền, giáo dục công nhân giữ gìn vệ sinh cá nhân khi tiếp xúc với các đồ vật bị nhiễm khuẩn có khả năng bị lây truyền bệnh than và cách chăm sóc chỗ da bị trầy xước. - Vệ sinh phòng bệnh: +Phòng chống bui và baorddamr thông giớ tốt ở những ngành công nghiệp có nguy cơ lây bệnh than, đặc biệt ở những nơi chế biến nguyên vạt liệu động vật thô. Duy trì kiểm tra sức khỏe thường kỳ cho công nhân với sự chăm sóc y tế kịp thời đối với những chỗ da bị thương tổn nghi nhiễm khuẩn. Sử dụng quần áo bảo hộ lao động, nhà tắm thích hợp để tắm giặt và thay quần áo sau khi làm việc. Dùng hơi forrmandehyl để tiệt khuẩn giai đoạn cuối cùng ở những nhà máy bị nhiễm vi khuẩn than; +Rửa, tiệt khuẩn cẩn thận các lông, da, các sản phẩm của xương và các thức ăn khác nguồn gốc động vật thật cẩn thận trước khi chế biến; +Không bán da của các súc vật nhiễm bệnh than và không được dùng xác động vật nhiễm bệnh này làm thức ăn; +Nếu nghi ngờ bệnh than thì không cần mổ xác súc vật nhwung lấy mẫu máu vô khuẩn ở cổ để nuôi cấy vi khuẩn. Tránh lây nhiễm ra xung quanh. Do sơ xuất đã mổ xác súc vật thì phải tiệt khuẩn và tiêu hủy các dụng cụ và vật dùng. Vì bào tử than có thể sống hàng chục năm ở ngoại cảnh, cần chôn sâu xác chết, không được đốt ở ngoài trời. Tẩy uế nơi có xác chết và chất thải của gia súc bằng dung dịch kiềm 5%, oxyt canxi (vôi bột). Xác súc vật phải được phủ một lớp vôi bột trước khi chôn; +Kiểm tra nước thải và chất thải từ các nhà máy chế biến súc vật có thể bị nhiễm bệnh và các nàh máysản xuất sản phẩm lông, da có thể nhiễm vi khuẩn. 10.2. Biện pháp chống dịch: - Tổ chức thành lập đội chống dịch; - Chuyên môn: +Thu dung, cách ly điều trị bệnh nhân: bệnh nhân cần được thu dung và cách lý điều trị. Phải giám sát những chất thải trong thời gian bệnh nhân bị bệnh thể ngoài da và thể phổi. Điều trị kháng sinh trong vòng 24 giờ; +Dự phòng cho các đối tượng có nguy cơ: tiêm phòng gây miễn dịch ngay và thường xuyên tiêm nhắc lại hằng năm cho tất cả súc vật có nguy cơ mắc bệnh. Điều trị súc vật có triệu chứng bằng kháng sinh Penicilline hoặc Tetracycline. Tiêm phòng cho tất cả súc vật sau khi điều trị khỏi (không nên ăn các súc vật này trong vòng vài tháng sau khi khỏi bệnh). Có thể điều trị thay thế cho tiêm phòng đối với súc vật đã tiếp xúc với chất thải bị nhiễm vi khuẩn than; +Xử lý môi trường: sát khuẩn tẩy uế đồng thời tiệt trùng những chất tiết thải ra từ bệnh nhân và các đồ vật nhiễm khuẩn. Hypochloride calci là thuốc diệt bào tử tốt nếu như đồ vật không chứa chất hữu cơ và không bị ăn mòn; Peroxyt hydro, acide peraxetic, glutaraldehyt, formandehyl, oxide ethylen và tia xạ cobal được thay nhau để khử khuẩn. Tiệt khuananr bằng hơi và dùng biện pháp đốt để tiệt bào tử. Biện pháp khử khuản bằng xông khói và hóa chất có thể sử dụng đối với trang thiết bị có giá trị. Phải tiệt khuẩn khi khỏi bệnh. Súc vật bị bệnh phải được chọn chôn ở nơi thích hợp và khử khuẩn trước khi chôn. 10.3. Nguyên tắc xử trí: +Với mầm bệnh than thông thường (chủng hoang dã) là thể da dẽ điều trị nhất; thể hô hấp diễn biến nhanh và nặng thường dẫn đến suy hô hấp, nhiễm khuẩn huyết và sốc nhiễm khuẩn nhiễm độc, viêm màng não cần được cấp cứu điều trị tích cực từ đầu; thể tiêu hóa khó điều trị hơn, tuy không nghiêm trọng bằng thể hô hấp, nhưng cũng có thể dẫn đến mất nước điện giải, mất máu, nhiễm khuẩn huyết, thủng ruột; +Sử dụng kháng sinh hợp lý để điều trị bệnh than. 10.4. Kiểm dịch biên giới: Tuân thủ các quy định hiện hành. Tài liệu tham khảo: 1.Bộ Y tế - Cục Y tế Dự phòng và Môi trường (2009). Cẩm nang Phòng chống bệnh truyền nhiễm. Hà Nội 2009, trang 236-243; 2.Brachman P, Friedlander AM.Vaccines.In: Plotkin SA, Orenstein WA.Anthrax.Philadelphia:WB Saunders;1999:629-37. 3.CDC.Bioterrorism alleging use of anthrax and interim guidelines for management--United States, 1998.MMWR Morb Mortal Wkly Rep.Feb 51999;48(4):69-74.[Medline]. 4.Christopher GW, Cieslak TJ, Pavlin JA, Eitzen EM.Biological warfare. A historical perspective.JAMA.Aug 61997;278(5):412-7.[Medline]. 5.Cieslak TJ, Eitzen EM.Clinical and epidemiologic principles of anthrax.Emerg Infect Dis.Jul-Aug1999;5(4):552-5.[Medline]. 6.Cunha BA.Doxycycline re-revisited.Arch Intern Med.May 101999;159(9):1006-7.[Medline]. 7.Cunha BA.Doxycycline. Antibiotics for Clinicians.Vol 3.1999:21-33. 8.Cunha BA, Domenico P, Cunha CB.Pharmacodynamics of doxycycline.Clin Microbiol Infect.May2000;6(5):270-3.[Medline]. 9.Cunha CB.Anthrax: Ancient Plague, Persistent Problem.Infect Dis Pract.1999;23(4). 10.Dixon TC, Meselson M, Guillemin J, Hanna PC.Anthrax.N Engl J Med.Sep 91999;341(11):815-26.[Medline]. 11. 12.Friedlander AM.Anthrax: clinical features, pathogenesis, and potential biological warfare threat.Curr Clin Top Infect Dis.2000;20:335-49.[Medline]. 13.Inglesby TV, Henderson DA, Bartlett JG, Ascher MS, Eitzen E, Friedlander AM.Anthrax as a biological weapon: medical and public health management. Working Group on Civilian Biodefense.JAMA.May 121999;281(18):1735-45.[Medline]. 14.Kadlec RP, Zelicoff AP, Vrtis AM.Biological weapons control. Prospects and implications for the future.JAMA.Aug 61997;278(5):351-6.[Medline]. 15.Lalitha MK, Mathai D, Thomas K.Anthrax: a continuing problem in southern India.Salisbury Med Bull Suppl.1996;87:14-15. 16.Meselson M, Guillemin J, Hugh-Jones M, Langmuir A, Popova I, Shelokov A.The Sverdlovsk anthrax outbreak of 1979.Science.Nov 181994;266(5188):1202-8.[Medline]. 17.Office of the Surgeon General.Medical aspects of chemical and biological warfare.Washington, DC:US Dept of the Army;1997:467. 18.Pile JC, Malone JD, Eitzen EM, Friedlander AM.Anthrax as a potential biological warfare agent.Arch Intern Med.Mar 91998;158(5):429-34.[Medline]. 19.Plotkin SA, Brachman PS, Utell M.An epidemic of inhalation anthrax, the first in the twentieth century.Am J Med.1960;29. 20.Shlyakhov E, Rubinstein E.Evaluation of the anthraxin skin test for diagnosis of acute and past human anthrax.Eur J Clin Microbiol Infect Dis.Mar1996;15(3):242-5.[Medline]. 21.Shlyakhov EN, Rubinstein E.Human live anthrax vaccine in the former USSR.Vaccine.Jun1994;12(8):727-30.[Medline]. 22.Stepanov AV, Marinin LI, Pomerantsev AP, Staritsin NA.Development of novel vaccines against anthrax in man.J Biotechnol.Jan 261996;44(1-3):155-60.[Medline]. 23.http://www.ykhoanet.com/tapchiyhoc 24.http://vietsciences.free.fr/timhieu/khoahoc/microbiologie/anthax.htm 25.http://www.nlm.nih.gov/medlineplus/anthrax.html 26.http://www.bt.cdc.gov/agent/anthrax/ 27.http://www.emedicinehealth.com/anthrax/article_em.htm
|
|
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |