TRANG CHỦ | Chủ nhật, ngày 24/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Những người nhiễm bệnh giun đầu gai có thể hình thành triệu chứng sớm 24 giờ sau khi nuots phải giun (?). các triệu chứng nói chung bao gồm suy nhược, sốt, mày đay, nôn mửa, tiêu chảy và đau thượng vị. Các ca giun đầu gaiđã được ghi nhận trên một số cơ quan trong cơ thể như phổi, mắt, mặt, đường tiết niệu, đường tiêu hóa, tính giác và hệ thần kinh trung ương. Giun đầu gai thể da niêm thường được chẩn đoán bởi sự hiện diện hình thái lâm sàng phù di chuyển hay hội chứng ban trườn. Phù, sưng phồng tại chỗ và abces da là các chỉ điểm thường gặp. Bệnh giun đầu gai phủ tạng có thể có nhiều hình thái khác nhau và ký sinh trùng có thể tìm thấy trong mắt (intraocular), đường tiêu hóa, phổi, mũi, tai, hệ thần kinh trung ương. Các nốt di chuyển dưới da là hình ảnh lâm sàng hay gặp đối với bệnh giun đầu thai thể tạng (visceral gnathostomiasis). Sự có mặt của giun trong hệ thần kinh trung ương và trong mắt là rất nghiêm trọng. Xuất huyết dưới nhện, nhiều hình thái viêm não và não úng thủy, có liên quan với bệnh giun đầu gai thể thần kinh. Mặc dù người ta đã hiểu làm thế nào giun đầu gai có thể đi vào trong mắt, họ có thể biết để phá hủy tuyến của võng mạc, dẫn đến mù không hồi phục. Trình bày lâm sàng là chìa khóa đầu tiên để nhận định giun đầu gai. Phù di chuyển (migratory oedema) hoặc ban trườn (creeping eruption) là các dấu hiệu có thể nhìn thấy ký sinh trùng di chuyển. Tiền sử tiêu hóa liên quan đến các thức ăn hoặc đi du lịch đến các vùng lưu hành có thể cung cấp cho nhiều thông tin quan trọng. Mọt loạt xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán như phản ưng ngưng kết, phát hiện kháng thể huỳnh quang gián tiếp, ngưng kết gián tiếp và ELISA đã được dùng để phát hiện kháng thể chống lại ký sinh trùng này. Albendazole, Mebendazole và Ivermectin đã chỉ ra có hiệu quả chống lại giun đầu gai nhưng điều trị lựa chọn thường phải dùng phẩu thuật loại bỏ ký sinh trùng ra khỏi mắt. Khuyến cáo liều người lớn cho Albendazole là 400mg x 2 lần mỗi ngày x 21 ngày đối với bệnh giun đầu gai khi mà không thể phẩu thuật gắp bỏ giun ra khỏi thương tổn. Báo cáo ca bệnh thứ 4: Ca bệnh giun đầu gai ở màng phổi từ bệnh nhân ở Từ lâu chúng ta đã biết, ngoại trừ 2 ca này nhiễm trùng trên mắt, thì chưa có ca nào được báo cáo tại Báo cáo ca bệnh thứ 5:Đây là một ca bệnh lâm sàng có tổng hợp y văn tiếng Anh (English-language literature) do tác giả Rusnak JM, Lucey DR và cộng sự đang công tác tại khoa bệnh truyền nhiễm, Trung tâm y khoa Wilford Hall, Lackland Air Force Base, Texas 78236-5300 báo cáo và đăng tải trên y văn. Giun đầu gai ở người thường báo cáo là do loại giun tròn có tên giun đầu gai và loài hay gặp nhất là Gnathostoma spinigerum. Bệnh này lưu hành ở Đông Nam Á, đặc biệt tại Thái Lan và Nhật Bản. Đặc điểm lâm sàng hay gặp là các thương tổn tại chỗ, tái hồi từng đợt, các dấu ấu trùng di chuyển sưng phồng trên da và mô dưới da, thương liên quan đến đau tại chỗ, ngứa và ban đỏ (erythema). Vì giun này có thể di chuyển đến các mô ở sâu hơn, bất kỳ hệ thống cơ quan nào cũng có thể liên quan và bị ảnh hưởng. Đặc trưng, các bệnh nhân bị giun đầu gai có gia tăng tỷ lệ bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi nhẹ đến nặng, nhưng giá trị này hiếm khi vượt 50% trong tổng số bạch cầu chung. Di dân và du lịch hiện nay là trào lưu trong bối cảnh hiện đại, nhiều ca bệnh giun đầu gai được phát hiện và chẩn đoán ngày càng tăng tại Mỹ. Tuy nhiên, vì tính hiếm gặp tại quốc gia này, nên giun đầu gai thường không được đẻ ý và đưa vào diện chẩn đoán phân biệt ngay từ đầu của các thầy thuốc mặc dù đặc điểm di chuyển từng hồi và sưng phồng là có, tiền sử đi du liochj đến Đông Nam Á và tăng bạch cầu ái toan. Ca bệnh ở đây là giun đầu gai thể da niêm được báo cáo tại Mỹ. | Báo cáo ca bệnh thứ 6: Một ca bệnh nhiễm giun đầu gai ở mắt (Ocular gnathostomiasis) phát hiện và điều trị tại phía Tây bắc của Mexico do nhóm tác giả Baquera-Heredia J, Cruz-Reyes A, Flores-Gaxiola A, López-Pulido G, Díaz-Simental E, Valderrama-Valenzuela L đang công tác tại Labo ký sinh trùng, Trung tâm y khoa American British Cowdray, Mexico báo cáo. | Một phụ nữ 42 tuổi đến từ Culiaca ở bang Sinaloa của Mexico cho biết có tiền sử và bệnh sử là thường xuyên xuất hiện các vết di chuyển, sưng phồng và đau kèm theo ngứa trên da mặt (four-year history of migratory, pruritic, painful swellings of the face) đã 4 năm qua. Phù mí mắt kèm theo ban đỏ kết mạc hình thành khi các tổn thương phát triển gần mắt. Khám mắt theo thường quy cho thấy một con giun di động trong tiền phòng. Sau đó, tiến hành phẩu thuật gắp bỏ giun, ký sinh trùng được gởi đi định danh dưới kính hiển vi điện tử là giai đoạn ba của ấu trùng Gnathostoma spp. Tỷ lệ nhiễm giun đầu gai này có thể gia tăng tại các vùng có thói quen ăn sống các loại cá nước ngọt như một tập quán ("cebiche"). Báo cáo ca bệnh thứ 7: Nhóm tác giả gồm Biswas J, Gopal L, Sharma T, Badrinath SS (2009) đang công tác tại khoa mắt bệnh học của Medical Research Foundation, Madras, India, báo cáo một ca bệnh giun đầu gai loại Gnathostoma spinigerum chui vào trong mắt thông qua nghiên cứu sâu về bệnh học lâm sàng (clinicopathologic study) của hai ca bệnh và có tổng hợp y văn. Giun tròn còn sóng nằm trong mắt là hiếm gặp trên lâm sàng và hầu như các báo cáo về ca bệnh chỉ tập trung ở các quốc gia Đông Nam Á. Phần lớn các giun tròn bắt gặp trong mắt còn sống là loại giun chỉ, Gnathostoma, Angiostrongylus. Khoảng 12 trường hợp giun đầu gai ở mắt (intraocular gnathostomiasis) đã được báo cáo trong y văn. Hai ca này cũng là giun đầu gai ở mắt, loại bỏ nhờ vào phẩu thuật tinh thể (vitrectomy) trong ca đầu tiên và nhờ vào chọc ca thứ hai. Nghiên cứu hình thái học của ký sinh trùng được tiến hành dưới kính hiển vi có cắt lớp (dissecting microscope) và cố định trong chất Karnovosky's fixative. Kính hiển vi dùng ánh sáng thường và kính hiển vi quét cũng được ứng dụng vào. Bệnh nhân đầu tiên có viêm mạch màng nho trước (anterior uveitis), có nhiều lỗ ở móng mắt và có hình ảnh sương mù ở dịch kính kèm theo tăng sinh sợi qua quan sát đĩa thị. Để giải quyết vết mờ sương ở dịch kính, một con giun được nhìn thấy trong khoang dịch kính. Bệnh nhân thứ hai có viêm màng mạch nho trước kèm theo tăng nhãn áp thứ phát, nhiều lỗ ở mống mắt, viêm dịch kính nhẹ và xuất huyết dưới võng mạc khu trú dạng vết. 4 ngày sau đó, một con giun sống được nhìn thấy trong tiền phòng và được gắp bỏ. Nghiên cứu vi thể ký sinh trùng của cả hai bệnh nhân cho hình ảnh giun đầu gai rõ rệt. Và các đặc điểm tổn thương trên lam sàng đối với mắt, móng mắt, võng mạc, màng mạch nho, xuất huyết,…đặc trưng cho giun đâu gai đã rõ và chẩn đoán cuối cùng của ca bệnh này chính là thể bệnh giun đầu gai ở mắt.
| |
Khi nhập viện, thân nhiệt của bệnh nhân là 380C. Khám thực thể bệnh nhân, kiểm tra tinh hoàn là bình thường, ngoại trừ có tiếng thổi tâm thu (trước đó bênh nhân đã có) và các triệu chứng lâm sàng tràn dịch màng phổi bên (T). Tràn dịch này được xác định trên phim chụp X quang cũng coh thấy hình ảnh thâm nhiễm phổi hai bên lan tỏa. Kết quả xét nghiệm thường quy cho mẫu máu đều trong khoảng bình thường, ngoại trừ chỉ số bạch cầu ái toan tăng cao 5.2 [10.sup.9]/L. xét nghiệm lam máu tìm ký sinh trùng sốt rét và giun chỉ dều âm tính. Thăm khám xét thận tiết niệu, bao gồm siêu âm và làm PSA tiền liệt tuyến cho thấy không có bất thường chỉ có u tuyến ở tuyến tiền liệt. Không phát hiện trứng hay ký sinh trùng qua xét nghiệm phân hoặc nước tiểu, mặc dù đã làm phương pháp cặn lắng và ly tâm nước tiểu. Sau khi chọc hút dịch màng phổi (transthoracic aspiration) lấy 100ml dịch xét nghiệm tế bào có số bạch cầu ái toan tăng cao (5.800/L) không kèm theo ký sinh trùng. Cấy dịch tìm vi khuẩn, cả mycobacterium đều âm tính. Vào ngày thứ 4, bệnh nhân hết sốt và ra viện.
Lúc nhập viện lại, kết quả bộ chẩn đoán huyết thanh với sán máng, sán lá phổi, giun lươn, ấu trùng sán dây lợn, giun xoắn, giun đầu gai, giun chỉ, giun đũa chó mèo đều âm tính lần đầu. Một tháng sau, đếm bạch cầu ái toan giảm xuống 1.8 x [10.sup.9]/L. Bệnh nhân hết sốt, chỉ phàn nàn hơi mệt mỏi. Xét nghiệm huyết thanh chẩn đoán lần 2 tiến hành. Thử nghiệm Western blot đối với giun đầu gai tại Viện Nhiệt đới Thụy sĩ. Thì dương tính, cho thấy phản ứng với IgG tạo 4 dải band gồm có band 24-kDa. Cân nhắc chẩn đoán ban đầu trên bệnh nhân này là giun đầu gai gây biến chứng ở phổi. Sự chuyển đổi huyết thanh đươc chẩn đoán qua xét nghiệm giun đầu gai. Tất cả test huyết thanh vẫn âm tính, ngoại trừ tăng hiệu giá kháng thể chống lại Acanthocheilonema vitae dùng kháng nguyên không đặc hiệu sàng lọc giun chỉ (Laboratoire Marcel Merieux,
Về mặt chẩn đoán, ba khía cạnh giun đầu gai như là một bệnh đang nổi do nhập khẩu (“Emerging imported disease”) có thể bổ sung về phần xét nghiệm bởi tác giả
Phản ứng phổi và màng phổi tăng bạch cầu ái toan có thể gợi ra do ấu trùng giun sán và làm máu đi vào các khoang cũng như phổi và màng phổi trong các trường hợp lạc chỗ. Quan điểm này cũng được tác giả Moore nhấn mạnh, bệnh nhân trở về từ vùng lưu hành bệnh, chủ yếu là các quốc gia Đông Nam Á, Trung và Nam Mỹ, do đó nên kiểm tra một cách hệ thống đối với bệnh giun đầu gai. Dù một số bệnh nhân chỉ ra hình ảnh lâm sàng điển hình ở da của bệnh giun đầu gai liên quan có tăng bạch cầu ái toan, hầu hết thể không điển hình có thể bỏ soát không chẩn đoán (under-diagnosed) và liên quan đến thần kinh nghiêm trọng nếu không được điều trị kịp thời. Tuy nhiên, mãi cho đến gần đây các test huyết thanh chẩn đoán đặc hiệu cho bệnh giun đầu gai sẵn có ở các quốc gia châu Á, chủ yếu ở Thái Lan và Nhật Bản. Một số la bô tại châu Âu gần đây cũng đã cung cấp test chẩn đoán bệnh giun đầu gai, điều này sẽ rất có giá trị trợ giúp bệnh nhân trong việc chẩn đoán, nhất là các đối tượng đi du lịch đến các vùng lưu hành bệnh trở về.
Chúng tôi mô tả một bệnh nhân 21 tuổiđã từng bị tái phát giun đầu gai thể da niêm (cutaneous gnathostomiasis) sau khi nhận liều điều trị đầu tiên bằng Albendazole và đã điều trị thành công sau khi uống thêm liều ngắn ngày Ivermectin để chống tái phát. Đây là ca bệnh báo cáo đầu tiên về giun đầu gai ở người tại
Bệnh nhân phàn nàn là ngứa toàn thân, suy nhược và nhức đầu. Không có triệu chứng thần kinh nào thất thường hay sốt. Khám thực thể cho thấy vùng sưng tấy (tumefaction) dưới da và da nằm ở vị trí bên ngoài của giữa đùi trái. Không có tổn thương da và các hạch lympho không lớn. Các dấu hiệu chức năng sống của bệnh nhân trong giới hạn bình thường.
Xét nghiệm công thức máu chỉ ra chỉ số hồng cầu bình thường như chỉ số bạch cầu ái tuyệt đối là 2.700 cells/mm3 (31%). Tiểu cầu tăng nhẹ (386,000 cells/mm3). Tốc độ máu lắng và nồng độ C-reactive protein, điện giải đồ, BUN, creatinine, men gan, bilirubin và creatine kinase đều trong giới hạn bình thường. Các xét nghiệm huyết thanh cho bệnh ký sinh trùng đều được thực hiện.
Bệnh sử chi tiết của bệnh nhân cho biết bệnh nhân có đi du lịch đã dùng món ăn “ceviche” (một món rất phổ biến làm từ cá sống ở biển nhúng trong nước canh lá cam) như là bữa ăn hàng ngày. Các loài khác của cá nước ngọt hoặc cá nước mặn (saltwater or freshwater fish) đều có thể dùng để chế biến món ăn này. Bệnh nhân đều phủ nhận dùng bất kỳ món ăn gì sống hoặc chế biến nấu không hợp lý khác.
Dù cho có vắng mặt trong các báo cáo y văn về bệnh giun đầu gai ở người tại Peru, song các nghi ngờ về lâm sàng của bệnh giun đầu gai đủ mạnh để bệnh nhân được chỉ định điều trị, vào ngày thứ 22, albendazole 400mg x 2 lần/ ngày x 3 tuần. Các dấu hiệu di chuyển sưng phồng đi xuống về phía khoeo chân (T) vào ngày thứ 25 và không xuất hiện trở lại trong thời gian bệnh nhân dùng thuốc. Chỉ số bạch cầu ái toan giảm còn 165 cells/mm3 vào thời điểm cuối liệu trình điều trị. Kết quả xét nghiệm huyết thanh học tại đại học Mahidol, Bangkok, Thailand, xác định chẩn đoán là giun đầu gai, nhờ vào sử dụng test ELISA phát hiện kháng thể chống lại kháng nguyên tinh khiết 24-kDa antigen thu nhận từ ấu trùng giai đoạn 3 thuần thục (advanced third-stage larvae) của giu8n đầu gai loại Gnathostoma spinigerum. Tại Thái Lan, xét nghiệm này đã được báo cáo xét nghiệm này có độ nhạy 100% và độ đặc hiệu 100% khi phát hiện bệnh giun đầu gai. Các kết quảxét nghiệm huyết thanh chẩn đoán đối với bệnh giun đầu gai, sán lá gan lớn, giun chỉ, giun lươn và ấu trùng sán dây lợn đều âm tính. Các kết quả của 3 mẫu phân cũng âm tính.
Bệnh nhân không có triệu chứng cho đến 2 tuần sau khi dùng liệu pháp albendazole đến ngày cuối cùng (ngày 60), khi 1 mảng viêm dưới da kích thước 8 x 5cm trên đầu gối trái của anh ta. Bạch cầu ái toan là 150cells/mm3. Ivermectin, 12 mg (200 µg/kg)/ngày được cho trong 2 ngày liên tiếp. Không thấy tác dụng phụ và không có dấu hiệu tái phát trong 12 tháng theo dõi. Bệnh nhân có thể được xem là chữa khỏi.
Bệnh giun đầu gai ở người, một bệnh lưu hành ở các quốc gia Đông Nam Á, thường loài gây ra là G. spinigerum. Người mắc phải do ăn phải các ấu trùng đóng kén trong các thớ thịt của cá, thịt gia cầm, ếch và một số động vật khác nấu chưa chín. Hầu hết các ca bệnh đã được báo cáo tại Thái Lan và Nhật Bản. Bệnh biểu hiện do di chuyển của ấu trùng giai đoạn 3. Phần lớn bệnh ảnh hưởng lên da và mô dưới da, nhwung ấu trùng có thể di chuyển đến các cơ quan sống khác, như thần kinh trung ương, phổi, mắt và bệnh cũng có thể dẫn đến tử vong.
Ca bệnh đầu tiên giun đầu gai ở người tại châu Mỹ La Tinh được báo cáo tại
Thóa liệu pháp đặc biệt cho điều trị giun đầu gai dựa vào liệu pháp Albendazole liều cao trong 3 tuần; tỷ lệ chữa khỏi (không thấy tái phát) cao đến 94% được báo cáo trong 6 tháng kể từ khi điều trị. Ivermectin, một dẫn chất của Avermectin B - cso hiệu quả chống lại một số giun tròn giai đoạn ấu trùng (ví dụ loài Oncocerca volvulus và Ancylostoma đã gây ra hội chứng ấu trùng di chuyển trên da) cũng như giia đoạn trưởng thành (chẳng hạn giun lươn Strongyloides stercoralis và Ascaris lumbricoides). Ivermectin cũng có hiệu quả trên thỏ nhiễm thực nghiệm ấu trùng giai đoạn 3 của giun đầu gai G. spinigerum. Tái phát một ca báo cáo ở người nhiễm giun đầu gai được báo cáo gần đây là bị tái phát sau 2 liều liên tiếp dùng Ivermectin, liều 200 µg/kg. Albendazole có hiệu quả trong việc làm giảm đáng kể chỉ số bạch cấu ái toan nhưng chưa chứng minh việc tái phát lại dấu sưng phồng. Điều này đưa ra câu hỏi liên quan đến bản chất của tái phát xảy ra 17 ngày sau khi hoàn thành liệu trình điều trị Albendazole. Mặc dù tái phát được nghĩ là có liên quan đến xuất hiện di chuyển ấu trùng, chúng ta có thể loại trừ khả năng có liên quan đến phản ứng tại chỗ gây ra do ký sinh trùng chết. Kể từ khi hoàn thành liệu trình 2 ngày dùng Ivermectin, không thấy tái phát xảy ra nữa, một lần nữa hiệu lực của Ivermectin cần nhìn nhận.
Nói tóm lại, ca bệnh báo cáo đầu tiên này về giun đầu gai tại
Báo cáo ca bệnh thứ 10:
Báo cáo ca bệnh thứ 11:
Tắc ruột non do nhiễm ký sinh trùng gây ra bởi sự ăn thịt sống (omophagia) các loài cá nước ngọt tương đối hiếm. ở ca bệnh này các nàh nghiên cứu trình bày ca tắc ruột có khả năng thay đổi phản ứng viêm liên quan đến nhiễm giun đầu gai Gnathostoma doloresi. Đây là một bệnh nhân nam 62 tuổi bị cắt mọt phần ruột non do chẩn đoán tắc ruột hoàn toàn. Bệnh nhân đã từng ăn các món thịt thái mỏng cá nước ngọt 4 tuần trước khi đau bụng xuất hiện, anh ta bị hội chứng ban trườn với một vài lằn roi trên thành bụng (welts on the abdominal wall). Thay đổi phản ứng viêm mạn tính gợi ý nhiễm ký sinh trùng được quan sát qua mẫu bệnh phẩm cắt ra. Chẩn đoán huyết thanh miễn dịch sử dụng dạng micro-ELISA (microenzyme-linked immunosorbent assay) giúp cho chẩn đoán giun đầu gai Gnathostoma doloresi. Liệu trình điều trị sau mổ rất có triển vọng và bệnh nhân xuất viện 12 ngày sau khi phẩu thuật. Chỉ có 2 trường hợ tắc ruột do Gnathostoma doloresi được báo cáo trên y văn từ trước đến nay.
Báo cáo ca bệnh thứ 12:
Du lịch quốc tế đang ngày càng gia tăng đáng kể trong vài thập niên qua và vấn đề này đang trở nên nhiễm bệnh quan trọng một số tác nhân tại các vùng không lưu hành đến Bắc Mỹ. Các tác giả báo cáo một ca bệnhvề phụ nữ 34 tuổi từ Mỹ đi thăm Thái Lan. Trong khi thăm viếng 1 tháng bệnh nhân bị sốt, đau cơ, đau khớp, ban đỏ sưng phồng tại chỗ kèm theo đau kèm theo tăng bạch cầu và tăng bạch cầu ái toan trong máu ngoại vi. Ba tuần sau đó, sau khi cô ta trở về Mỹ, các hình ảnh lâm sàng như phù mặc, đau, không ấn lõm là các triệu chứng đáng chú ý. Chẩn đoán lâm sàng là bệnh giun đầu gai, xác định hiệu giá kháng thể với Gnathostoma là 1:1.024. Các triệu chứng được giải quyết sau 6 tháng.
Các tác giả cũng cho thấy xét nghiệm từ y văn về bệnh giun đầu gai ở người tuyệt vời. Bệnh thường mắc phải do ăn phải các thoạt thịt của cá, gà hoặc heo bị nhiễm ấu trùng giia đoạn 3 của giun đầu gai chưa được nấu chín G. spinigerum. Loại ký sinh trùng này đã tìm thấy tại Trung Quốc, Nhật Bản, Đông Nam Á, Philippines, Úc, Mexico và Ecuador; chưa thấy báo cáo loại bệnh này tại Mỹ.
Đặc điểm vùng da niêm bị nhiễm giun đầu gai bao gồm các giai đoạn cách hồi của triệu chứng phù không ấn lõm, di chuyển, tại chỗ, kéo dài 1-2 tuần liên quan đến đau, ngứa và ban đỏ. Một vị trí thường gặp sưng phồng là vùng mặt; trong vị trí này giun đầu gai có thể đi vào vùng lỗ ở sọ gây ra các triệu chứng liên quan đến mắt và hệ thần kinh trung ương. Ít gặp hơn thì da có biểu hiện dạng ấu trùng di chuyển và ban trườn (creeping eruption), abces hoặc dạng tạo nốt. Qua thời gian, các giai đoạn sưng phồng ngắn và ít rầm rộ hơn và thậm chí có thể biến mất. Bệnh nên xem xét và nghĩ đến trên các bệnh nhân liên quan gần đây có du lịch đến các vùng lưu hành bệnh và có các xét nghiệm như thế này. Chẩn đoán xác định qua phân lập giun tròn, nhưng khó có thể thực hiện được, xét nghiệm miễn dịch ELISA là tốt nhất để phát hiện kháng thể anti-gnathostome.
Bàn luận về mặt chẩn đoán
Tam chứng chẩn đoán là tăng bạch cầu ái toan, thương tổn di chuyển của ấu trùng và nguy cơ phơi nhiễm rõ ràng trong tiền sử là gợi ý chẩn đoán cao đối với bệnh nhân giun đầu gai. Nguy cơ phơi nhiễm phải bao gồm sống trong vùng hoặc có du lịch đén vùng lưu hành bệnh và tiêu hóa các thức ăn tiềm tàng với các màm bệnh chứa ấu trùng của giun đầu gai (cá ăn sống hoặc nấu chưa chín, đặc biệt các loại cá chình, con lươn, cá trê, cá rô, cá tráp, cá rô phi ở sông Nile, cá nục, cá chạch, cá chuối, ếch, mèo, gà, chó. Về mặt lâm sàng, chẩn đoán phân biệt chính gồm có bệnh giun mạch (angiostrongyliasis) giun xoắn (trichinosis) và ấu trùng di chuyển dưới da.
Trước khi mong đợi một xét nghiệm huyết thanh, chẩn đoán thường làm bởi phân lập ấu trùng từ các thương tổn chúng đã gây ra, nhưng điều này thường khó trong các thương tổn da có di chuyển, và không thể thực hiện trong các thể bệnh giun đầu gai ở tạng. Tăng bạch cầu ái toan thường có mặt trong quá trình ấu trùng di chuyển ban đầu, đặc biệt ở trên da hoặc mô dưới da, nhưng không phải luôn luôn có mặt bất kỳ thời điểm nào cũng có và sự vắng mặt của dấu chứng này không phải loại trừ chẩn đoán. Tăng bạch cầu ái toan trong dịch não tủy cũng gợi ý chẩn đoán cao cho bệnh lý giun đàu gai ở hệ thần kinh trung ương, với báo cáo 5-94% và tổng số bạch cầu trong dịch não tủy lên đến 500/mm3 (khoảng 20-1420/mm3), nhưng cũng óc thể tìm thấy trong một số bệnh ký sinh trùng khác, như Angiostrongylus cantonensis, Toxocara canis, Strongyloides stercoralis, Ascaris lumbricoides, Paragonimus westermani, Fasciola hepatica, Trichinella spiralis và sán máng, ấu trùng sán dây lợn thể thần kinh và các nhiễm trùng như là nhiễm nấm đơn bào coccidiodomycosis và nhiễm nấm Aspergillus. Các tình trạng không nhiễm trùng liên quan đến hệ thần kinh trung ương cũng cần xem xét (ví dụ lymphoma, đặc biệt là Hodgkin).
Vào những năm 1960, tét da sử dụng tiêm kháng nguyên giun đầu gai vào trong nội bì (intradermal injection of G. spinigerum antigen) được sử dụng ở Nhật Bản, nhưng điều này sau đó được biết là thiếu độ nhạy và độ đặc hiệu. Các nhà khoa học lần đầu tiên đã pohats triển một test huyết thanh dùng chẩn đoán, sử dụng chất kháng nguyên thân thô của giun đầu gai trưởng thành Gnathostoma doloresi. Tuy nhiên, điều này là có trở ngại bởi phản ứng chéo với các loài ký sinh trùng khác tìm thấy đồng thời tại địa phương như Paragonimus westermani, Toxocara canis, Anisakis và Fasciola hepatica. Sau đó họ đã tìm ra vấn đề đặc biệt và chọn lọc kháng nguyên đặc hiệu cho giun đầu gai G. doloresi nhưng có thể khắc phục nếu kháng nguyên G. spinigerum được sử dụng thay thế.
Các xét nghiệm được cải thiện nhờ vào dùng kháng nguyên của ấu trùng giai đoạn ba (L3) của giun đầu gai G. spinigerum thay vì lấy của giun trưởng thành, nhưng phản ứng chéo vẫn còn tồn tại với một số ký sinh trùng khác. Hơn nữa, kháng nguyên của ấu trùng L3 tìm thấy có tạo phức hợp rất cao với hơn 20 thành phần, một số lại phản ứng với huyết thanh của chứng người khỏe mạnh. Tapchaisri và cộng sự đã phát hiện ra một loại kháng nguyên đặc hiệu L3 với khối phân tử 24 kDa có độ đặc hiệu lớn nhất và phản ứng chỉ với huyết thanh của giun đầu gai và không phản ứng với các loại ký sinh trùng khác. Tiếp đó, các thử nghiệm này là nền tảng cho kỹ thuật Immunoblot và các thử nghiệm huyết thanh chẩn đoán cho tương lai..
Xét nghiệm ELISA với kháng thể L3 immunoglobulin G (IgG) cũng được phát triển và thiết kế, nhưng độ nhạy quá thấp, dao dộng 59 - 87%, độ đặc hiệu là 79 - 96%. Tiếp đó, Nuchprayoon và cộng sự cho biết dùng loại IgG subclasses hơn là loại total IgG, nên độ nhạy và đọ đặc hiệu của ELISA vì thể được cải thiện. Điều này đã cho thấy để cải thiện chẩn đoán đối với một số loại ký sinh trùng khác như giun đũa, Leishmania, filariasis. Nghiên cứu của họ chỉ ra rằng kháng thể IgG2 ít có phản ứng chéo nhất (đặc biệt với Angiostrongylus, loài ký sinh trùng hay chẩn đoán phân biệt nhất) và có độ đặc hiệu 88% và giá trị dự kiến dương tính là 93%, ngược lại kháng thể IgG1 có độ nhạy cao nhất (98%) và giá trị dự kiến âm tính (94%). Với ngoại lệ kháng thể IgG2, phản ứng chéo tìm thấy với Angiostrongylus cantonensis, giun móc, Strongyloides stercoralis, Opisthorchis viverrini. Họ kết luận rằng kháng thể IgG1 nên sử dụng để sàng lọc các trường hợp nghi ngờ giun đầu gai và loại kháng thể IgG2 có thể sử dụng để xác định chẩn đoán. Một nghiên cứu mở rộng hồi cứu về các bệnh ký sinh trùng và không phải ký sinh trùng tiến hành qua 7 năm xác định về phản ứng chéo của test (P. Dekumyoy và cs., 2008).
Hiện tại, một số test huyết thanh sẵn có để chẩn đoán bệnh giun đầu gai. Sử dụng rộng rãi nhất ở châu Ấu là loại Immunoblot để phát hiện dải band đặc hiệu 24-kDa để chẩn đoán bệnh giun đầu gai. Xét nghiệm này thực hiện ở nhiều nơi khác nhau, với huyết thanh học của Vương quốc Anh gởi đến bệnh viện bệnh nhiệt đới, đại học Mahidol,
Đề cập đặc biệt nên chẩn đoán cẩn trọng đối với bệnh giun đầu gai thể thần kinh trung ương. Dịch não tủy nếu có sẽ biểu hiện tăng bạch cầu ái toan, kèm theo tăng áp lực và tăng protein. Xét nghiệm huyết thanh học cho mẫu dịch não tủy là không cần thiết và cũng không phải làm thường quy và chưa có ấn bản về dữ liệu như thế. Chụp MRI có ích để chỉ ra hình ảnh tổn thương di chuyển trong tủy sống. Ký sinh trùng làm cho hình ảnh cường độ tín hiệu cao trên T2 và tăng cản quang ở T1, điều này nếu không chuyển động sẽ góp phần và các hình ảnh viêm, mạch máu, khối tân sinh hoặc nhiễm trùng khác. Tuy nhiên, bản chất di chuyển của các thương tổn như vậy sẽ phù hợp với con đường di chuyển của ấu trùng đã trình bày rất tuyệt vời đối với giun Gnathostoma. Xơ hóa đa ổ cũng sẽ sinh ra các tổn thương từng đợt trên hình ảnh chụp cộng hưởng từ, nhưng điều này có thể loại trừ nhờ vào xét nghiệm dải band đơn dòng trong dịch não tủy (CSF oligoclonal bands).
Một số bàn luận về điều trị:
Đã nhiều năm nay không có phác đồ điều trị đặc hiệu cho bệnh giun đầu gai, phẩu thuật bó tách ấu trùng giun đầu gai ra khỏi mô vẫn là biện pháp quản lý ca bệnh hiệu quả. Các thuốc khác đã thử nghiệm trên cả người và dộng vật không thành công là các thuốc thiabendazole, praziquantel, metronidazole, diethylcarbamazine và quinine.
Tuy nhiên, các nghiên cứu với Albendazole trên mô hình động vật đã là thuốc hứa hẹn điều trị trên người (Kraivichian và cs.,1992) (n = 112) xác định hiệu lực thuốc này trên người và tỷ lệ chữa khỏi lên đến > 90% ở liều 400 mg, hai lần mỗi ngày, trong 21 ngày. Albendazole lại là thuốc chống giun sán nhóm benzmidazole phổ rộng, đã chứng minh có hiệu lực cao chống lại giun sán đường ruột và giun sán ngoài ruột (extraintestinal helminthic infections) như sán lá gan nhỏ, bệnh nang sán, ấu trùng di chuyển dưới da. Phương thức tác động chính của Albendazole là nhờ vào hiệu ứng ức chế trên quá trình khử cực hóa các cấu trúc vi ống tubuline (tubulin polymerization), hậu quả nó sẽ mất đi các cấu trúc vi ống trong bào tương (cytoplasmic microtubules). Quá trình mất đi hoặc giáng hóa các cơ chế hấp thu glucose, theo sau đó của cơ chế dự trữ glycogen của giun dẫn đến hậu quả mất động và giun sẽ chết. Albendazole hấp thu kemstrong đường tiêu hóa (dù có hấp thu tốt hơn thuốc Mebendazole) và chuyển hóa nhanh chóng trong gan thành chất có hoạt tính ban đầu là albendazole sulfoxide, trước khi chúng đi vào hệ tuần hoàn chung. Sinh khả dụng của thuốc đường uống tăng lên khi Albendazole cho dùng đồng thời với bữa ăn nhiều chất béo. Thuốc có độ an toàn cao và dung nạp thuốc tương đối tốt với tác dụng phụ chính hay gặp là buồn nôn, chóng mặt, nhức đàu, đôi khi rối loạn chức năng gan và giảm bạch cầu thoáng qua. Ngoài ra, Albendazole dường như có tác dụng kích thích di chuyển của ấu trùng hướng ra bên ngoài (outward migration), do vậy làm cho chúng dễ và khả năng lộ ra đường hầm và thủ thuật lấy sinh thiết trong chẩn đoán dễ dàng. Lý do cho quá trình di chuyển này đến nay vẫn chưa biết rõ ràng, nhưng thường diễn ra sau 7-14 ngày sau khi bắt đầu điều trị thuốc.
Ivermectin cũng được thử lâm sàng coh điều trị bệnh giun đầu gai và thuốc dường như có hiệu lực tương tự albendazole. Ivermectin gắn chọn lọc với tính kết hợp cao với kênh glutamate-gated chloride ion trong thần kinh các động vật không xương sống và các tế bào cơ. Điều này gia tăng một sự xuyên thấm của màng tế bào với các ion chloride với quá trình tăng khử cực của tế bào thần kinh và tế bào cơ, dẫn đến gây liệt và làm chết ký sinh trùng. Ivermectin cũng có thể tương tác với các kênh ligand-gated chloride, như là các cống bởi gamma-aminobutyric aciddẫn truyền thần kinh cơ (neurotransmitter gamma-aminobutyric acid). Thuốc được chuyển hóa trong gan và có một vài tác dụng phụ, một tỏng số đó chính là chóng mặt và nói chung thuốc dung nạp tốt. Ivermectin đã cho thấy có hiệu quả ở liều tức thì (stat dose) 0.2mg/kg hoặc liều 0.2mg/kg trong 2 ngày liên tiếp, do đó đây không phải là vấn đề.
Nghiên cứu liên quan đến Ivermectin đã tỏ ra khá tốt với cỡ mẫu nhỏ (n = 17 - 21), do đó đánh giá về nó với cỡ mẫu lớn hơn trong các nghien cứu tiến cứu là cần thiết. Một trong những vấn đề đáng chú ý tiềm tàng là hiện tượng “flare” của bệnh đã được phát hiện trong một nghiên cứu của Kraivichian và cộng sự, trong đó đã chỉ ra nhóm dùng Ivermectin có biểu hiện trầm trọng hơn trên các triệu chứng của da niêm so với nhóm dùng Albendazole. Về mặt lý thuyết thì đây là vấn đề nghiêm trọng đối với một bệnh về tạng, đặc biệt bệnh ở mắt và thần kinh trung ương. Mặc dufg không có xuất hiện như thế đã báo cáo trong y văn. Vấn đề sử dụng thuốc steroid như đối với bệnh ấy trùng sán dây lợn thể thần kinh (neurocystercercosis) để ngăn ngừa phản ứng viêm tại các vị trí mà chúng ta có thể xem là nguy hiểm tính mạng. Về lý thuyết có vẻ hợp lý và có thể dùng trong các thể giun đầu gai hoặc mắt của bệnh giun đầu gai ở người; tuy nhiên, các dữ liệu còn giới hạn và chỉ có một nghiên cứu áp dụng điều này với cỡ mẫu lớn (n = 162) cho thấy hiệu quả không rõ ràng trong các ca bệnh dùng steroid đường uống hoặc tiêm.
Liệu trình điều trị ban đầu không phải luôn luôn thành công, liệu trình thứ 2 cũng cần thiết trong một số ca bệnh. Hoặc là Albendazole hoặc là Ivermectin có thể dùng theo các bệnh nhân như vậy và cả hai thuốc đều cho kết quả điều trị tốt đối với liệu trình ban đầu thất bại. Tuy nhiên, những vùng lưu hành bệnh có thể khó phân biệt được thất bại điều trị (treatment failure) và tái nhiễm (reinfection). Một loạt báo cáo gần đây của Strady và cộng sự tiến hành trên trên các đối tượng đi du lịch đến các vùng lưu hành bệnh, cho thấy tỷ lệ tái phát xảy ra lên đến 7 tháng sau điều trị và giai đoạn tối đa giữa 2 lần tái phát là 15 tháng, và có 1 ca xảy ra sau đó và trường hợp này là thể giun đầu gai thần kinh. Một tiếp cận mang tính ứng dụng sẽ làm nếu bệnh nhân không có triệu chứng sau 12 tháng điều trị, điều này đủ bằng chứng chữa khỏi, đặc biệt nếu hỗ trợ bởi một cách giải quyết tình trạng tăng bạch càu ái toan và giảm hiệu giá kháng thể của phản ứng ELISA. Trong vấn đề tái phát (relapse), nếu có thể nên theo dõi liệu trình 12 tháng là cần thiết.
Các thử nghiệm trong tương lai sẽ có ích đẻ điều tra việc sử dụng thuốc phối hợp Albendazole và Ivermectin và để xác định có hay không có tái phát và tỷ lệ tái phát có thấp hơn nhóm dùng đơn trị liệu hay không.
Tài liệu tham khảo
1.Diaz Camacho SP, Zazueta Ramos M, Ponce Torrecillas E, Osuna Ramirez I, Castro Velazquez R, Flores Gaxiola A, et al. Clinical Manifestations and immunodiagnosis of gnathostomiasis in
2.de Górgolas Hernández-Mora M, Fernández Guerrero ML. Gnathostomiasis: an increasing disease among travellers. Med Clin (Barc). 2005;125:190-2
3.Akahane H, Shibue K,
4.Moore DA, Mccroddan J, Dekumyoy P, Chiodini PL. Gnathostomiasis: An emerging imported disease. Emerg Infect Dis. 2003;6:647-50
5.Del Giudice P, Dellamonica P, Durant J, Rahelinrina V, Grobusch MP, Janitschke K, et al. A case of gnathostomiasis in a European traveller returning from
6.Hennies F, Jappe U, Kapaun A, Enk A. Gnathostomiasis: Import from
7.Baquera-Heredia J, Cruz-Reyes A, Flores-Gaxiola A, López-Pulido G, Díaz- Simental E, Valderrama- Valenzuela L. Case report: ocular gnathostomiasis in northwestern México. Am J Trop Med Hyg. 2002; 66:572–4
8.Hale DC, Blumberg L, Frean J. Case report: Gnathostomiases in two travelers to
9.Ogata K, Nawa Y, Akahane H, Diaz-Camacho SP, Lamothe-Argumedo R, Cruz-Reyes A. Short report: gnathostomiasis in
10.Kraivichian K, Nuchprayoon S, Sitichalernchai P, Chaicumpa W, Yentakan S. Treatement of cutaneus gnathostomiasis with ivermectin. Am J Trop Med Hyg. 2004;71:623-8
11.Kravichian P, Kulkumthorn M, Yingyourd P, Akarabovorn P, Paireepai CC. Albendazole for the treatment of human gnathostomiasis. Trans R Soc Trop Med Hyg. 1992;86:418-21
12.Magaña M,
13.Grobusch MP, Bergmann F, Teichmann D, Klein E. Cutaneous gnathostomiasis in a woman from Bangladesh. Int J Infect Dis. 2000;4:51-4
14.Nontasut P, Bussaratid V, Chullawichit S, Charoensook N, Visetsuk K. Comparison of ivermectin and albendazole treatment for gnathostomiasis. Southeast Asian J Trop Med Public Health. 2000;31:374-7
15.Moore DA, McCroddan J, Chiodini PL. Gnathostomiasis: an emerging imported disease. Emerg Infect Dis. 2003;9:647-50.
16.Mulhall JP, Albertsen PC. Hemospermia: diagnosis and management. Urology. 1995;46:463-7.
17.Wilson ME, Weller PF. Eosinophilia. Tropical infectious diseases. In: Guerrant RL, Walker DH, Weller PF, editors. Principles, pathogens, and practice.
18.Dow C,
19.Nagler A, Pollack S, Hassoun G, Kerner H, Barzilai D, Lengy J. Human pleuropulmonary gnathostomiasis: a case report from
20.Menard A, Dos Santos G, Dekumyoy P, Ranque S, Delmont J, Danis M, et al. Imported cutaneous gnathostomiasis: report of five cases. Trans R Soc Trop Med Hyg. 2003;97:200-2.
21.Parola P. Gnathostomiasis, Lancet. 2001;358:332.
22.Anantaphruti, M. T. 1989. ELISA for diagnosis of gnathostomiasis using antigens from Gnathostoma doloresi and G. spinigerum. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 20:297-304.[Medline]
23.Barrowman, M. M., S. E. Marriner, and J. A. Bogan. 1984. The binding and subsequent inhibition of tubulin polymerization in Ascaris suum (in vitro) by benzimidazole anthelmintics. Biochem. Pharmacol. 33:3037-3040.[CrossRef][Medline]
24.Bhattacharjee, H., D. Das, and J. Medhi. 2007. Intravitreal gnathostomiasis and review of literature. Retina 27:67-73.[CrossRef][Medline]
25.Biswas, J., L. Gopal, T. Sharma, and S. S. Badrinath. 1994. Intraocular Gnathostoma spinigerum. Clinicopathologic study of two cases with review of literature. Retina 14:438-444.[Medline]
26.Boongird, P., P. Phuapradit, N. Siridej, T. Chirachariyavej, S. Chuahirun, and A. Vejjajiva. 1977. Neurological manifestations of gnathostomiasis J. Neurol. Sci. 31:279-291.[CrossRef][Medline]
27.Chai, J. Y., E. T. Han, E. H. Shin, J. H. Park, J. P. Chu, M. Hirota, F. Nakamura-Uchiyama, and Y. Nawa. 2003. An outbreak of gnathostomiasis among Korean emigrants in
28.Chandenier, J., J. Husson, S. Canaple, C. Gondry-Jouet, P. Dekumyoy, M. Danis, G. Riveau, C. Hennequin, A. Rosa, and C. P. Raccurt. 2001. Medullary gnathostomiasis in a white patient: use of immunodiagnosis and magnetic resonance imaging. Clin. Infect. Dis. 32:E154-E157.[CrossRef][Medline]
29.Chappuis, F., T. Farinelli, and L. Loutan.2001. Ivermectin treatment of a traveler who returned from
30.Chitanondh, H., and L. Rosen. 1967. Fatal eosinophilic encephalomyelitis caused by the nematode Gnathostoma spinigerum. Am. J. Trop. Med. Hyg. 16:638-645.[Abstract/Free Full Text]
31.Daengsvang, S. 1949. Human gnathostomiasis in
32.Daengsvang, S. 1981. Gnathostomiasis in
33.Diaz-Camacho, S. P., M. Zazueta-Ramos, E. Ponce-Torrecillas, I. Osuna-Ramirez, R. Castro-Velasquez, A. Flores-Gaxiola, J. Baquera Heredia, K. Willms, H. Akahane, K. Ogata, and Y. Nawa. 1998. Clinical manifestations and immunodiagnosis of gnathostomasis in
34.Dow, C., P. L. Chiodini, A. J. Haines, and S. M. Michelson. 1988. Human gnathostomiasis. J. Infect. 17:147-149.[CrossRef][Medline]
35.Feinstein, R. J., and J. Rodriguez-Valdes. 1984. Gnathostomiasis or larva migrans profundus. J. Am. Acad. Dermatol. 11:738-740.[CrossRef][Medline]
36.Guitierrez, Y. 2000. Diagnostic pathology of parasitic infections with clinical correlations, 2nd ed. Oxford University Press,
37.Hale, D. C., L. Blumberg, and J. Frean. 2003. Case report: gnathostomiasis in two travellers to
38.Herman, J. S., E. Wall, C. Van Tulleken, P. Godfrey-Faussett, R. L. Bailey, and P. L. Chiodini. 2009. Emergence of gnathostomiasis in
39.Kraivichian, P., M. Kulkumthorn, P. Yingyourd, P. Akarabovorn, and C. C. Paireepai. 1992. Albendazole for the treatment of human gnathostomiasis. Trans. R. Soc. Trop. Med. Hyg. 86:418-421.[CrossRef][Medline]
40.Kraivichian, K., S. Nuchprayoon, P. Sitichalernchai, W. Chaicumpa, and S. Yentakam. 2004. Treatment of cutaneous gnathostomiasis with ivermectin. Am. J. Trop. Med. Hyg. 71:623-628.[Abstract/Free Full Text]
41.Laummaunwai, P., K. Sawanyawisuth, P. M. Intapan, V. Chotmongkol, C. Wongkham, and W. Maleewong. 2007. Evaluation of human IgG class and subclass antibodies to a 24 kDa antigenic component of Gnathostoma spinigerum for the serodiagnosis of gnathostomiasis. Parasitol. Res. 101:703-708.[CrossRef][Medline]
42.Lucas, S., J. Bell, and L. Chimelli. 2008. Chapter 19, p. 1476-1477. In S. Love, D. N. Louis, and D. W. Ellison (ed.), Greenfield's neuropathology, 8th ed. Oxford University Press, Oxford, United Kingdom.
43.Maleewong, W., N. Morakote, W. Thamasonthi, K. Charuchinda, S. Tesana, and C. Khamboonruang. 1988. Serodiagnosis of human gnathostomiasis. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 19:201-205.[Medline]
44.McCarthy, J., and T. A. Moore. 2000. Emerging helminth zoonoses Int. J. Parasitol. 30:1351-1360.[CrossRef][Medline]
45.
46.Moore, D. A., J. McCroddan, P. Dekumyoy, and P. L. Chiodini. 2003. Gnathostomiasis: an emerging imported disease. Emerg. Infect. Dis. 9:647-650.[Medline]
47.Morisita, T., M. Kobayashi, K. Nagase, H. Iwanga, and M. Sumi. 1969. Nonspecificity of intradermal test with Gnathostoma antigen. Jpn. J. Parasitol. 18:120.
48.Nagler, A., S. Pollack, G. Hassoun, H. Kerner, D. Barzilai, and J. Lengy. 1983. Human pleuropulmonary gnathostomiasis: a case report from
49.Nawa, Y., C. Hatz, and J. Blum. 2005. 22 Sushi delights and parasites: the risk of fishborne and foodborne parasitic zoonoses in
50.Nawa, Y. 1991. Historical review and current status of gnathostomiasis in
51.Nontasut, P., V. Bussaratid, S. Chullawichit, N. Charoensook, and K. Visetsuk. 2000. Comparison of ivermectin and albendazole treatment for gnathostomiasis. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 31:374-377.[Medline]
52.Nontasut, P., B. A. Claesson, P. Dekumyoy, W. Pakdee, and S. Chullawichit. 2005. Double-dose ivermectin vs albendazole for the treatment of gnathostomiasis. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health. 36:650-652.[Medline]
53.Nopparatana, C., P. Tapchaisri, P. Setasubun, W. Chaicumpa, and P. Dekumyoy.1988. Antibody responses in human gnathostomiasis. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 19:219-224.[Medline]
54.Nuchprayoon, S., V. Sanprasert, M. Suntravat, K. Kraivichian, and W. Saksirisampant. 2003. Study of specific IgG subclass antibodies for diagnosis of Gnathostoma spinigerum. Parasitol. Res. 91:137-143.[CrossRef][Medline]
55.Ottesen, E. A., and W. C. Campbell. 1994. Ivermectin in human medicine. J. Antimicrob. Chemother. 34:195-203.[Abstract/Free Full Text]
56.Owen, R. 1836. Gnathostoma spinigerum n.sp. Proc. Zool. Soc. (
57.Parola, P., G. Bordmann, P. Brouqui, and J. Delmont. 2004. Eosinophilic pleural effusion in gnathostomiasis Emerg. Infect. Dis. 10:1690-1691.
58.Prommas, C., and S. Daensgsvang. 1936. Further report of a study of the the life cycle of Gnathostoma spinigerum. J. Parasitol. 22:180-186.[CrossRef]
59.Punyagupta, S., T. Bunnag, and P. Juttijudata. 1990. Eosinophilic meningitis in
60.Rojas-Molina, N., S. Pedraza-Sanchez, B. Torres-Bibiano, H. Meza-Martinez, and A. Escobar-Guiterrez.1999. Gnathostomiasis, an emerging foodbourne zoonotic disease in
61.Roper, A. H., and R. H. Brown (ed.). 2005. Adams and Victors principles in neurology, 8th ed. McGraw-Hill,
62.Rusnak, J. M., and D. R. Lucey. 1993. Clinical gnathostomiasis: case report and review of the English-language literature Clin. Infect. Dis. 16:33-50.
63.Ryan, E. T., M. E. Wilson, and K. C. Kain. 2002. Illness after international travel. N. Engl. J. Med. 347:505-516.[CrossRef][Medline]
64.Sawanyawisuth, K., S. Tiamkao, J. Kanpittaya, P. Dekumyoy, and S. Jitpimolmard. 2004. MR imaging findings in cerebrospinal gnathostomiasis. Am. J. Neuroradiol. 25:446-449.[Abstract/Free Full Text]
65.Steffen, R., C. deBarnardis, and A. Banos. 2003. Travel epidemiology-a global perspective. Int. J. Antimicob Agents 21:89-95.[CrossRef]
66.Strady, C., P. Dekumyoy, M. Clement-Rigolet, M. Danis, F. Bricaire, and E. Caumes. 2009. Long-term follow-up of imported gnathostomiasis shows frequent treatment failure. Am. J. Trop. Med. Hyg. 80:33-35.[Abstract/Free Full Text]
67.Suntharasamai, P., V. Desakorn, S. Migasena, D. Bunnag, and T. Harinasuta. 1985. ELISA for immunodiagnosis of human gnathostomiasis. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 16:274-279.[Medline]
68.Suntharasamai, P., M. Riganti, S. Chittamas, and V. Desakorn. 1992. Albendazole stimulatesoutward migration of Gnathostoma spinigerum to the dermis in man. Southeast Asian J. Trop. Med. Public Health 23:716-722.[Medline]
69.Tada,
70.Tapchaisri, P., C. Nopparatana, W. Chaicumpa, and P. Setasuban.1991. Specific antigen of Gnathostoma spinigerum for immunodiagnosis of human gnathostomiasis. Int. J. Parasitol. 21:315-319.[CrossRef][Medline]
71.Visudhiphan, P., S. Chiemchanya, and R. Somburanasim. 1980. Causes of spontaneous sub-arachnoid haemorrhage in Thai infants and children. J. Neurosurg. 53:185-187.[CrossRef][Medline]
72.Yoshimura, K. 1998. Chapter 34, p. 651-659. In L. Collier, A. Balows, and M. Sussman (ed.), Topley and Wilson's microbiology and microbial infections, 9th ed. Hodder Arnold, London, United Kingdom.
Ngày 25/03/2011 |
PGS.TS. Triệu Nguyên Trung, Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang và Cn. Võ Thị Thu Trâm |
|
||||
|
|
|
|
|
|
| |
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |