|
Giardia intestinalis. Nguồn: www.stanford.edu |
Bệnh đường ruột do trùng roi thìa Giardia intestinalis
Trùng roi thìa Giardia intestinalis ít gặp nhưng có khả năng gây bệnh đường ruột, đặc biệt là đối với trẻ em. Biểu hiện lâm sàng thường thấy như đau bụng, đi tiêu lỏng, đôi khi xen kẽ với táo bón. Trong những trường hợp nặng, phân thải có thể có chất nhầy máu. Cần quan tâm đến một loại bệnh đường ruột này. Đặc điểm của loại trùng roi thìa Trùng roi thìa có các tên khoa học khác nhau như Giardia intestinalis, Lamblia giardia, Lamblia intestinalis, Giardia duodenalis, được Nhà khoa học Lambl người Tiệp Khắc phát hiện lần đầu tiên vào năm 1859. Đây là một loại trùng roi sống ký sinh ở ruột và gây bệnh cho con người. Mầm bệnh là thể kén của trùng roi thìa. Thể này sống rất lâu ở ngoại cảnh. Trong phân, đất ẩm, kén sống được 3 tuần; ở trong nước kén sống được 5 tuần. Nguồn bệnh là người lành mang trùng, người bệnh đào thải kén theo phân. Ở nước ta, các nhà khoa học đã nghiên cứu trước đây ghi nhận tỷ lệ nhiễm trủng roi thìa ở trẻ em khoảng 15%, ở người lớn khoảng tử 1 đến 10%. Trùng roi thìa lây lan rất dễ dàng qua đường tiêu hóa. Kén trùng roi thìa theo thức ăn, nước uống, rau sống, bàn tay bẩn, đồ chơi trẻ em... xâm nhập vào cơ thể. Mọi lứa tuổi kể cả nam lẫn nữ đều có thể bị nhiễm loại trủng roi thìa. Về hình thể, trùng roi thìa tồn tại ở thể hoạt động và thể kén. - Thể hoạt động của trùng roi thìa nếu quan sát chính diện chiều rộng mặt bụng có hình quả lê bổ đôi theo chiều dọc; nếu nhìn nghiêng chúng có hình giống như chiếc thìa với phía lưng gồ, bụng lõm. Mặt lõm dùng để bám vào niêm mạc ruột gọi là đĩa bám. Đuôi cong lên phía lưng. Thể hoạt động của trủng roi thìa có kích thước chiều dài tử 9 đến 21 µm, chiều ngang từ 5 đến 15 µm, chiều dày từ 2 đến 4 µm. Ở 1/3 trước có hai nhân đối xứng hai bên trục sống. Mỗi nhân có một trung thể lớn, tròn. Vỏ nhân rõ, giữa vỏ nhân và trung thể là khoảng trống nên nhân giống như hai con mắt. Thể hoạt động của trùng roi thìa có 4 đôi roi, một đôi đi ra phía trước, một đôi ở giữa, một đôi ở bụng và một đôi ở đuôi. Có một trục sống đi dọc giữa thân. Thể cạnh gốc hình dấu phẩy cắt ngang trục sống. - Thể kén của trùng roi thìa có hình trái xoan, vỏ dày có hai lớp; kén có 2 hoặc 4 nhân. Kích thước thể kén có chiều dài từ 10 đến 14 µm, chiều rộng từ 7 đến 9 µm. Về sinh học, trùng roi thìa sống ký sinh trên bề mặt niêm mạc ruột non, tá tràng, đôi khi thấy ở đường dẫn mật, trong túi mật. Chúng hoạt động rất nhanh nhờ có 4 đôi roi và luôn thay đổi vị trí ký sinh, lúc thì bám vào niêm mạc ruột, lúc thì chuyển động. Trùng roi thìa hấp thu chất dinh dưỡng của dưỡng trấp bằng hình thức thẩm thấu qua màng thân và sinh sản bằng cách phân đôi theo chiều dọc. Nhân phân chia trước rồi tới đĩa bám, thể gốc, thể cạnh gốc, trục sống và roi tiếp tục phân chia. Một số thể hoạt động theo thức ăn xuống cuối ruột non và tới đại tràng. Tại đây phân dần dần trở nên rắn và thể hoạt động biến thành thể kén theo phân tống xuất ra ngoại cảnh. Kén của trùng roi thìa ở ngoại cảnh qua đường tiêu hóa lại xâm nhập vào cơ thể con người, khi đến đoạn tá tràng sẽ thoát kén và trở thành thể hoạt động để tiếp tục vòng đời ký sinh của chúng. | Vòng đời của Giardia intestinalis. Nguồn www.dpd.cdc.gov | Bệnh lý do trùng roi thìa gây nên
Mọi lứa tuổi kể cả nam và nữ đều có thể bị nhiễm trùng roi thìa. Chúng có khả năng lây lan mạnh qua đường tiêu hóa theo thức ăn, nước uống, rau sống, bàn tay và đồ chơi trẻ em nhiễm bẩn... mang mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể con người. Khi trùng roi thìa ký sinh ở đường tiêu hóa sẽ gây bệnh cho người. Tuy nhiên, tùy theo số lượng trùng roi thìa và đặc điểm của từng người bệnh mà có những biểu hiện các triệu chứng khác nhau. Ở người trưởng thành, có khoảng 50% các trường hợp bị nhiễm trùng roi thìa thường ít hoặc không có biểu hiện bệnh lý lâm sàng, vì vậy đây là nguồn bệnh nguy hiểm. Trẻ em bị nhiễm trùng roi thìa đều có biểu hiện triệu chứng ít hoặc nhiều. Trùng roi thìa thường bám chặt vào niêm mạc ruột và luôn luôn hoạt động, thay đổi vị trí nên thường xuyên kích thích các đầu mút thần kinh ở ruột. Hậu quả dẫn đến tình trạng rối loạn tiết dịch, rối loạn nhu động ruột và dẫn đến viêm ruột. Biểu hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh thường thấy đau bụng, đi tiêu chảy, đôi khi xen kẽ bị táo bón... Các trường hợp nặng có thể thấy phân có chất nhầy lẫn máu. Do bị viêm ruột và do số lượng trùng roi thìa rất lớn, có thể có hàng triệu trùng roi thìa trên 1 cm2 diện tích niêm mạc ruột nên chúng phủ kín niêm mạc ruột, ngăn cản sự hấp thu các chất dinh dưỡng ở ruột. Sự hấp thu chất mỡ, các loại vitamin A, D, E, K... hòa tan trong mỡ cần thiết cho sự phát triển hệ cơ, xương ở cơ thể trẻ em bị hạn chế. Hậu quả dẫn đến trẻ em bị suy dinh dưỡng, còi cọc, gây sút cân, đau bụng, đi tiêu chảy có tính chất chu kỳ, phân có mỡ... Ngoài ra, các sản phẩm chuyển hóa của trùng roi thìa có tác dụng độc đối với hệ thần kinh, gây nên mất ngủ, biếng ăn ở trẻ em. Đôi khi trùng roi thìa còn gây ra bệnh lý viêm đường dẫn mật và túi mật. Chẩn đoán và điều trị bệnh Khi bị nhiễm trùng roi thìa, nếu chỉ dựa vào triệu chứng lâm sàng khó phân biệt với các bệnh khác, nhất là đối với trẻ em bị suy dinh dưỡng và còi xương. Vì vậy cần căn cứ vào vào việc chẩn đoán ký sinh trùng học như: Xét nghiệm phân có thể dễ dàng phát hiện thể kén của trùng roi thìa, đôi khi có thể thấy cả thể hoạt động. Thể kén và thể hoạt động thường gặp trong phân lỏng, còn phân đóng cục chỉ phát hiện được thể kén. Xét nghiệm dịch tá tràng có thể thấy thể hoạt động của trùng roi thìa. Hiện nay, việc chẩn đoán huyết thanh miễn dịch bằng phương pháp Elisa (Enzyme-linked immunosorbent assay) đã được áp dụng để chẩn đoán phát hiện kháng nguyên của trùng roi thìa. Ngoài ra, một số phòng xét nghiệm sinh học phân tử cũng có thể thực hiện được chẩn đoán bằng kỹ thuật PCR (Polymerase Chain Reaction) để phát hiện trùng roi thìa. Điều trị bệnh trùng roi thìa bằng các loại thuốc đặc hiệu như: - Quinacrin: liều lượng tùy theo lứa tuổi, có thể dùng 0,01g cho mỗi kilôgam trọng lượng cơ thể, sử dụng trong 5 ngày. Quinacrin có độc tính cao và thường gây vàng da. - Metronidazol, biệt dược là Flagyl: có tác dụng tốt, ít độc. Người lớn dùng liều lượng 0,75g/ 24 giờ, trong 5 ngày. Trẻ em từ 5 đến 15 tuổi dùng liều lượng 0,5g/24 giờ, trong 5 ngày. Trẻ em dưới 5 tuổi dùng liều lượng 0,25g/ 24 giờ, trong 5 ngày. Kết hợp với thuốc đặc hiệu, cần điều trị toàn diện bằng việc bổ sung thêm các loại viatamin A, D, E, K... Phòng chống bệnh trùng roi thìa Biện pháp phòng chống bệnh trùng roi thìa cũng tương tự như các bệnh nhiễm trùng qua đường tiêu hóa, cụ thể là: - Phát hiện những người bị nhiễm trùng roi thìa, kể cả người bệnh và người lành mang trùng để điều trị. - Vệ sinh ăn uống như thức ăn phải được bảo vệ không để ruồi, nhặng, gián và các loài côn trùng truyền bệnh khác làm ô nhiễm thức ăn. - Giữ gìn đồ chơi và bàn tay của trẻ em sạch sẽ vì trẻ em thường hay mút tay và ngậm đồ chơi. Cần rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. - Quản lý tốt nguồn phân thải của người đúng nguyên tắc vệ sinh, phải tăng cường công tác truyền thông giáo dục sức khỏe để nâng cao ý thức cho cộng đồng không được phóng uế bừa bãi ra môi trường sống.
|