|
Giun chỉ (Wuchereria bancrofti) |
Ấu trùng giun chỉ có thể xét nghiệm máu phát hiện vào ban ngày
Ở nước ta, bệnh giun chỉ bạch huyết (Filariose) thường gặp ở một số vùng. Sự lưu hành bệnh giun chỉ phụ thuộc vào mật độ ấu trùng giun chỉ trong máu người bệnh. Tất cả các trường hợp bệnh phát hiện chủ yếu đều bị nhiễm loại giun chỉ Wuchereria bancrofti chu kỳ đêm. Triệu chứng lâm sàng thường khó phát hiện trong giai đoạn đầu của bệnh. Vì vậy cần chẩn đoán ký sinh trùng học bằng phương pháp xét nghiệm máu ngoại vi để xác định và có thể thực hiện xét nghiệm vào ban ngày thay vì ban đêm. Đặc điểm sinh học của giun chỉ bạch huyết Giun chỉ trưởng thành gồm giới đực và cái cuộn vào nhau ký sinh ở hệ bạch huyết. Giun trưởng thành đẻ ra ấu trùng ở hệ bạch huyết, ấu trùng di chuyển từ hệ bạch huyết sang hệ tuần hoàn. Ban ngày ấu trùng giun chỉ tập trung ở các mao mạch nhỏ tại phổi, ban đêm khoảng từ 20 giờ tối đến 2 giờ sáng hôm sau, ấu trùng có thể xuất hiện ở máu ngoại vi. Sự xuất hiện của ấu trùng giun chỉ ở máu ngoại vi vào ban đêm đã được ghi nhận từ lâu và có nhiều giả thuyết giải thích về hiện tượng này như sau: - Giả thuyết sinh tồn cho rằng muốn bảo toàn nòi giống, ấu trùng giun chỉ ở người mang mầm bệnh phải xâm nhập vào được cơ thể muỗi là trung gian truyền bệnh hút máu. Muỗi là vật chủ phụ của giun chỉ, muốn hoàn thành vòng đời sinh học, giun chỉ nhất thiết cần phải có giai đoạn phát triển trong cơ thể muỗi. Các loài muỗi truyền bệnh giun chỉ như Culex, Anopheles, Mansonia thường hoạt động hút máu về ban đêm. Có những nơi như tại một số hòn đảo ở Thái Bình Dương là Samoa, New Ghinea..., muỗi truyền bệnh giun chỉ là loài Aedes scutellaris có hoạt động hút máu vào ban ngày nên ở những nơi này ấu trùng giun chỉ xuất hiện trong máu ngoại vi cả ban ngày lẫn ban đêm. - Giả thuyết về sự giãn mao mạch khi ngủ cho rằng ấu trùng giun chỉ tập trung ở mao mạch máu nội tạng như tim, gan, phổi, thận... khi ngủ; mao mạch giãn nở nên ấu trùng giun chỉ có thể xuất hiện ở máu ngoại vi. Nếu thay đổi chế độ sinh hoạt như làm việc vào ban đêm, ngủ vào ban ngày thì chu kỳ xuất hiện của ấu trùng giun chỉ ban đêm có thể chuyển sang ban ngày. Nếu dùng các loại thuốc tiêm gây giãn mạch máu vào ban ngày thì có thể thấy ấu trùng giun chỉ xuất hiện ở máu ngoại vi ngay sau khi tiêm thuốc. Nếu ấu trùng giun chỉ sống trong cơ thể người không được muỗi đốt hút máu sang cơ thể muỗi thì ấu trùng giun chỉ sẽ chết sau khoảng 10 tuần. Tuổi thọ trung bình của giun chỉ trưởng thành sống ký sinh ở người khoảng từ 15 đến 17 năm. Những loài muỗi có vai trò truyền bệnh giun chỉ bạch huyết Wuchereria bancrofti ở Việt Nam theo các nhà nghiên cứu phát hiện chủ yếu là loài muỗi Culex quinquefasciatus, Anopheles hyrcanus, Culex vishnui, Anopheles barbumbrosus, Anopheles letifer. Chẩn đoán bệnh giun chỉ bạch huyết Nguồn bệnh chủ yếu là người bị nhiễm ấu trùng giun chỉ, ở những người bệnh đã có biến chứng phù voi, đi tiểu ra dưỡng trấp ít có vai trò truyền bệnh. Mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm ấu trùng giun chỉ bạch huyết nhưng tuổi càng lớn thì tỷ lệ nhiễm ấu trùng giun chỉ càng cao, theo đó mật độ của ấu trùng giun chỉ trong máu cũng cao. Bệnh giun chỉ bạch huyết Wuchereria bancrofti có biểu hiện lâm sàng khá phong phú, triệu chứng lâm sàng có thể khác nhau giữa các vùng bệnh lưu hành. Bệnh giun chỉ sinh ra do phản ứng quá mẫn của cơ thể vật chủ dưới các tác động của độc tố hoặc các sản phẩm chuyển hóa của giun chỉ. Ngoài ra, bệnh gây nên cũng do tổn thương cơ học ở hệ thống bạch huyết và mạch máu hoặc do cản trở tuần hoàn bạch huyết kèm theo sự nhiễm trùng thứ phát. Chẩn đoán lâm sàng bệnh giun chỉ bạch huyết thường rất khó khăn trong giai đoạn đầu của bệnh. Khi có các triệu chứng tiểu ra dưỡng trấp, phù voi hay người bệnh sống trong vùng bệnh giun chỉ lưu hành thì chẩn đoán lâm sàng sẽ dễ dàng hơn. Đối với những người sống ở ngoài vùng lưu hành của bệnh giun chỉ, việc chẩn đoán lâm sàng cũng gặp khó khăn. Vì vậy, kỹ thuật chẩn đoán ký sinh trùng học có giá trị trong xác định bệnh giun chỉ bạch huyết với nhiều phương pháp khác nhau. Theo đặc điểm sinh học, ấu trùng giun chỉ thường xuất hiện trong máu ngoại vi vào ban đêm. Ngoài phương pháp cổ điển, truyền thống thực hiện việc xét nghiệm máu phát hiện bệnh vào ban đêm. Một số phương pháp khác cũng được áp dụng để có thể phát hiện bệnh vào ban ngày, khắc phục nhược điểm, hạn chế do phải tiến hành kỹ thuật lấy máu vào buổi tối; gây phiền hà cho người bệnh và bất tiện cho nhân viên y tế. - Phương pháp xét nghiệm máu ngoại vi vào ban đêm Đây là phương pháp thông dụng nhất. Lấy máu ngoại vi vào ban đêm, khoảng từ 20 giờ tối đến 2 giờ sáng hôm sau để làm tiêu bản máu giọt dày, nhuộm giemsa và soi dưới kính hiển vi quang học phát hiện ấu trùng giun chỉ. Nếu mật độ ấu trùng giun chỉ trên 1 ml máu quá ít thì xác suất cho kết quả phát hiện ấu trùng dương tính thấp. Việc lấy máu vào ban đêm gây phiền hà cho cả người bệnh và nhân viên y tế, vì vậy rất khó áp dụng trong điều tra dịch tễ học hàng loạt để phát hiện bệnh. - Phương pháp Knote Lấy 2 ml máu cho vào ống nghiệm có chứa sẵn 10 ml formalin 2%, ly tâm lấy cặn, làm tiêu bản máu giọt dày, nhuộm giemsa, soi kiểm tra phát hiện ấu trùng bằng kính hiển vi. - Phương pháp Harris Lấy 4 ml máu cho vào ống nghiệm có chứa sẵn 1 ml heparin, 4 ml saponin 2%, ly tâm, quan sát phát hiện ấu trùng ở phần cặn lắng. - Phương pháp Millipore Lấy 1 ml máu tĩnh mạch vào bơm tiêm chuyên dụng, hút thêm 4 ml nước cất, lắc trong ống tiêm cho máu huyết tán hoàn toàn, bơm qua màng lọc; sau đó lại hút thêm 5 ml nước cất vào bơm tiêm và bơm qua màng lọc. Tiếp tục làm như vậy từ 4 đến 5 lần cho đến khi nước trong, bơm không khí qua màng lọc từ 4 đến 5 lần. Lấy màng lọc ra, để úp mặt trên lam kính, nhuộm màng lọc bằng giemsa, rửa nhanh, để khô và kiểm tra phát hiện ấu trùng trên kính hiển vi. - Nghiệm pháp xua ấu trùng giun chỉ ra máu ngoại vi vào ban ngày Đây là phương pháp do nhà khoa học Sulival.T (1970) và Partono (1972) đã nghiên cứu ứng dụng xua ấu trùng giun chỉ xuất hiện trong máu ngoại vi vào ban ngày để lấy lam máu xét nghiệm, khắc phục được sự bất tiện phải lấy máu vào ban đêm. Cho người bệnh uống thuốc Diethylcarbamazine (DEC) 100 mg, thuốc sẽ có tác dụng xua ấu trùng giun chỉ ra máu ngoại vi vào ban ngày. Sau khi uống thuốc khoảng 30 phút, lấy máu ngoại vi làm tiêu bản máu giọt dày, nhuộm giemsa, soi kiểm tra trên kính hiển vi để phát hiện ấu trùng. Nhờ phương pháp này, nhân viên y tế có thể lấy máu ngoại vi tìm ấu trùng giun chỉ vào ban ngày, đạt kết quả dương tính đến 90% so với lấy máu xét nghiệm vào ban đêm. - Phương pháp xét nghiệm nước tiểu, phân Xét nghiệm nước tiểu của những người bệnh có tiểu ra dưỡng trấp hoặc phân... cũng có thể phát hiện được ấu trùng giun chỉ. Ngoài ra, một số phương pháp cận lâm sàng khác dùng để chẩn đoán bệnh giun chỉ bạch huyết bằng miễn dịch học với kháng nguyên giun chỉ chó Dirofilaria immitis, sinh thiết hạch bạch huyết tìm giun chỉ trưởng thành... cũng được ứng dụng để phát hiện bệnh. Các biện pháp phòng, chống bệnh - Phát hiện và điều trị nguồn bệnh là biện pháp chủ yếu. - Cần phát hiện sớm, điều trị triệt để, điều trị hàng loạt là biện pháp kinh tế nhất để phòng chống bệnh giun chỉ. - Thuốc Diethylcarbamazine (DEC) là loại thuốc được chọn lọc để điều trị bệnh giun chỉ bạch huyết, thuốc đã được sản xuất tại Việt Nam với giá rẻ. Có thể dùng thuốc này để phòng bệnh giun chỉ ở những vùng có bệnh lưu hành, uống với liều lượng 6 mg/kg trọng lượng cơ thể/ngày; mỗi tháng uống 1 lần. - Phòng chống muỗi truyền bệnh giun chỉ bạch huyết riêng lẻ thường gặp khó khăn vì chúng có nhiều loài và ít nhạy cảm với các loại hóa chất diệt. Biện pháp này thường được lồng ghép với các biện pháp phòng chống muỗi truyền bệnh sốt rét, sốt xuất huyết... Có thể phòng chống muỗi đốt bằng các biện pháp thông dụng như ngủ màn, diệt bọ gậy muỗi bằng nuôi cá ở các ao, hồ để cá ăn bọ gậy và kết hợp với việc cải tạo môi trường. Đây là một biện pháp tích cực trong phòng chống muỗi truyền bệnh giun chỉ bạch huyết. - Các biện pháp vệ sinh môi trường, khơi thông cống rãnh, ao hồ, nuôi cá, dọn quanh ao bèo... sẽ làm hạn chế và tạo nên sự khó khăn cho muỗi sinh sản. Ngoài ra, sự phát triển các công trình thủy lợi, tưới tiêu nước ở nông thôn... có ảnh hưởng tốt đến công tác phòng chống bệnh giun chỉ bạch huyết.
|