Các tế bào miễn dịch cơ thể liên quan đến kháng thuốc hoặc thất bại điều trị
Đối với căn bệnh sốt rét, gánh nặng bệnh tật và thảm họa gây ra đã cướp đi hàng triệu sinh mạng trên hành tinh này trong thời gian qua, dù nay đã giảm đi đáng kể nhờ vào các thành quả và chiến lược phòng chống sốt rét tích cực như phòng chống vector, cung cứng và sử dụng thuốc sốt rét có hiệu quả, phân vùng dịch tễ học và can thiệp cho từng giai đoạn phù hợp nhất. Tuy nhiên, vấn đề kháng các thuốc sốt rét, nhất là hiệu lực của một só phác đồ đang có giảm, đe dọa kháng thuốc… đã khiến cho toàn cầu lo lắng và nhiều dự án, nguồn lực và quỹ ngân sách của cá nhân và chính phủ đã tập trung nghiên cứu về bản chất cơ bản của kháng, một mặt lại đầu tư nghiên cứu, phát triển thuốc mới để chống kháng nếu có xảy ra, đặc biệt với nhóm thuốc Artemisinine và dẫn suất. Một vấn đề đặc biệt quan trọng là đến nay vẫn chưa có một kết quả công trình nào công bố cho biết về có thật sự kháng Artemisinine và các dẫn suất hay không, cũng như chưa công bố gen kháng thuốc,…nhiều câu hỏi vẫn chưa có phần trả lời! 1. Sự tồn tại KSTSR trong quá trình điều trị thuốc artemisinine liên quan đến tế bào hình cây trong lách Nghiên cứu đó đến từ Viện nghiên cứu y khoa Úc (QIMR_Queensland Institute of Medical Research) đã mở ra một hướng mới để phát triển các thuốc và vaccine mới cho sốt rét. Nhà nghiên cứu của QTHA là tiến sĩ Michelle Wykes và nhóm của cô ta từ QIMR vừa ấn bản một thử nghiệm mới cho thấy các ký sinh trùng sốt rét có thể sống sót trong một loại tế bào bạch cầu ở trong lách. Về kinh điển, người ta tin rằng sự phát triển KSTSR trong cơ thể chỉ giới hạn trong gan và các tế bào hồng cầu. Tiến sĩ Wykes thực hiện nghiên cứu này qua nhiều năm qua, cung cấp một hướng mới trong cách suy nghĩ về KSTSR. Hướng này mở ra một tiếp cận mới tổng thể để phát triển các đích tác dụng của thuốc và vaccine khi nhiễm trùng tại lách (theo tạp chí Media Releases (Nov 23, 2011) cho biết một đột phá trong nghiên cứu sốt rét đang quan tâm đến khía cạnh các tế bào miễn dịch cơ thể. "Nghiên cứu của chúng tôi đã khám phá ra làm làm thế nào các tế bào bạch cầu gọi là các tế bào hình cây, rối loạn chức năng và che chở cho KSTSR khỏi bị các cơn miễn dịch cơ thể. "Các tế bào hình cây thường có chức năng giống như một lực lượng quân đội, cho phép các tế bào miễn dịch chống lại nhiễm trùng” – tiến sĩ Wykes cho biết. "Hệ thống thường làm việc một cách tích cực. Song, vấn đề với sốt rét thì bệnh tìm ra một hướng đi mới để ngăn chặn các tế bào hình cây khỏi các công việc của chúng, nghĩa là bệnh ra khỏi (over-rides) các đáp ứng miễn dịch của chúng ta. Và do vậy, người ta bị bệnh. TS Wykes nhận giiar thưởng 300,000 USD do Queensland Government Smart State fellowship vào năm 2010 để hỗ trợ cho nghiên cứu này của bà ta. "Tài trợ này có thể giúp cho tôi tiến triển thêm trong nghiên cứuvà không có nó chúng tôi khó có thể thực hiện các thử nghiệm như thế mà đây lại là bước quan trọng trong chống lại vấn đề sốt rét toàn cầu”. TS. Wykes cho biết. Kết quả thử nghiệm này được ấn bản trên tạp chí khoa hoc danh tiếng Proceedings of the National Academy of Sciences của Mỹ. Sốt rét đã ảnh hưởng đến 200 triệu người trên toàn thế giới, gây gần 800.000 cái chết mỗi năm, hầu hết trong số đó là trẻ em dưới 5 tuổi. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) trình bày cho thấy hầu hết cái chết ở châu Phi, nơi mà các trẻ chết cứ mỗi 45 giây và chiếm 20% số ca tử vong trẻ em tổng thể. Australia không có miễn dịch khoảng 600 ca được báo cáo hàng năm, hầu hết họ đi du lịch đến các quốc gia lưu hành có sốt rét, với người Queensland chiếm gần 1/3 con số đó. Nhiễm sốt rét năm nay đã được báo cáo tại Torres Strait. Sự thay đổi thời tiết có thể là tiềm năng gây nên tình trạng thúc đẩy lan rộng bệnh sốt rét do muỗi truyền tại khu vực nhiệt đới Queensland. Viện QIMR là một trong những viện nghiên cứu y khoa thành công nhất và lớn nhất với các nàhà nghiên cứu điều tra về mặt di truyền và nguyên nhân môi trường với hơn 40 bệnh cũng như các công cụ chẩn đoán mới, liệu pháp điều trị mới và chiến lược dự phòng mới. QIMR là một đối tác với Queensland Tropical Health Alliance (QTHA) với James Cook University, Queensland University of Technology and Griffith University, với mục đích cải thiện phát hiện, chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiệt đới. Chính phủ tại Queensland đóng góp hơn 19 triệu USD để xây dựng cơ sở hạ tầng để mở rộng nghiên cứu các bệnh nhiệt đới và xây dựng QTHA như một mạng lưới nghiên cứu y khoa và sức khỏe nhiệt đới ngang tầm quốc tế. Tái phát ký sinh trùng ngủ quên “Dormant parasite recrudescence »Các nghiên cứu trước đây do tác giả Teuscher và cộng sự cho thấy rằng điều trị bằng AS, P. falciparum thể nhẫn trở nên ngủ và khoảng 0.001–1.313% phục hồi để phát triển lại lệ thuộc vào strain. Trong các nghiên cứu đó, ký sinh trùng phục hồi từ « ngủ quên » tìm thấy có liên quan đến lệ thuộc liều (dose-dependent). Để xác định nếu hiện tượng tương tự này xảy ra trên in vivo, sự phục hồi các ký sinh trùng ngủ (thời gian đạt > 5.0% ký sinh trùng) được đánh giá sử dụng loài P. v. vinckei. Các kết quả cho thấy rằng các thể ngủ, tương tự như những gì tìm thấy trên in vitro, trên các con chuột điều trị và số ngày hồi phục có liên quan “dương tính” với số lượng thể ký sinh trùng ngủ trên các con chuột nguyên vẹn; Tuy nhiên, điều này có khác biệt so với các con chuột không còn lách. Dựa vào các thiết kế thử nghiệm, các nhà khoa học thiết kế thực nghiệm không thể tính toán tỷ lệ hồi phục được. Tuy nhiên có thể ước phỏng vì nhóm bị tiêm với 40 ký sinh trùng không thể hồi phục, tỷ lệ hồi phục là 1/400 ký sinh trùng ngủ (0.25%) so với những nghiên cứu trước đây. Vai trò của lách?Khoảng 5% lượng máu lưu thông tuần hoàn khắp cơ thể đi đến lách và trung bình số hồng cầu đi qua lách mỗi 20 phút. Khi bệnh nhân nhiễm sốt rét, sự phát triển của các ký sinh trùng trong hồng cầu dẫn đến cấu trúc, tổ chức lại (remodeling) cả hồng cầu nhiễm và hồng cầu không nhiễm. Lách sẽ lọc các hồng cầu thay đổi bản chất cấu trúc này nên đã làm tăng thiếu máu. Giảm lượng ký sinh trùng cao có liên quan đến nhiễm trùng sốt rét nặng. Các nghiên cứu bởi Newton và cộng sự cho biết các lỗ hỗng hoặc hõm lách (splenic-pitting) này có liên quan trong phần lớn quá trình làm sạch ký sinh trùng đã được nhìn thấy sau khi điều trị bằng artemisinin. Những cá nhân không có lách đang sống trong vùng lưu hành P. falciparum, biểu hiện sốt thường hơn, mật độ KSTSR cao hơn và thời gian làm sạch KSTSR dài hơn sau khi điều trị thuốc sốt rét như artemisinin. Các nghiên cứu sử dụng chuột nhiễm P. berghei, thấy các động vật bị cắt lách hoàn toàn (full splenectomies) có mật độ KSTSR gấp đôi tìm thấy khi so sánh trên các con chuột cắt lách bán phần và còn nguyên lách. Ngoài ra, khi Moore và cộng sự đánh giá làm sạch ký sinh trùng trên các con chuột bị không có lách và lách còn nguyên bị sốt rét điều trị bằng DHA, họ đã tìm thấy khả năng làm sạch ký sinh trùng giảm trên nhóm chuột mất lách (asplenic population). Tương tự như vậy, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng ký sinh trùng ngủ đòi hỏi thời gian ít hơn để hồi phục khi tiêm vào các con chuột bị cắt lách và tất cả chuột sống sót không lách đó thấp hơn nhóm chứng nguyên vẹn lách. Các dữ liệu này xác định vai trò của lách trong việc làm sạch KSTSR sau khi điều trị, tuy nhiên cũng chỉ ra khả năng xâm nhập vào các hố lách của các thể nhẫn ngủ. Các nghiên cứu tiếp theo về thể nhẫn ngủ (dormant rings) và làm sạch của lách được đảm bảo. Nói tóm lại, mô tả lần đầu tiên về sự hiện diện của các thể vô tính ngủ trong nghiên cứu in vivo sau điều trị thuốc artesunate (AS). Người ta chưa rõ có hay không hiện tượng này liệu có chỉ xảy ra đối với AS hay không? Do đó, các nghiên cứu tương lai nên điều tra xem các dẫn chất artemisinin và các sản phẩm khác của thuốc sốt rét có tạo ra các thể ngủ này hay không và nếu có tái phát (recrudescence) phải được nghiên cứu. Ngoài ra, vì sự khác biệt trong đáp ứng giữa các chủng gây chết và không gây chết (non-lethal and lethal strains), các nghiên cứu tiếp theo nên chú ý so sánh só lượng ký sinh trùng ngủ mà được sinh ra bởi chủng gây chết và không gây chết. Điều này sẽ giúp xác định nếu có mối liên quan giữa các ký sinh trùng ngủ, độ trầm trọng của bệnh và hiệu quả điều trị. Nếu có sự khác biệt, có lẽ một sự thay đổi đối với các chiến lược khuyến cáo điều trị nhằm đúng dựa trên loại nhiễm có mặt. Cuối cùng, các nghiên cứu điều tra về cơ chế đằng sau thể ngủ này cũng nên tiến hành làm rõ. Các thử nghiệm nhu cầu dùng thuốc ACTs để giảm khả năng tái phát sớm sau khi dùng liệu pháp đơn trị liệu artemisinin và cung cấp các thông tin có giá trị về liều dùng tối ưu trong điều trị sốt rét mà có thể chứng minh hữu ích trong việc ngăn ngừa sự tái phát KSTSR này. 2. Nghiên cứu cho thấy KSTSR “ngủ” trong tế bào hồng cầu có thể góp phần thất bại điều trị đối với liệu pháp ArtemisinineTiến sĩ Alexis LaCrue, dẫn đầu nhóm nghiên cứu cùng với nghiên cứu viên chính Dennis Kyle à. Các nhà nghiên cứu của trường đại học South Florida (USF) của Học viện y tế công cộng đã cho thấy lần đầu tiên trong một mô hình gặm nhấm có thể ký sinh trùng sốt rét sớm nhất có thể nằm ngủ lại trong các tế bào hồng cầu và thức dậy hoặc hồi phục sau khi điều trị bằng thuốc sốt rét loại artesunate. Nghiên cứu này đã đăng tải trên tạp chí PLoS onE, chỉ ra rằng hiện tượng ngủ của giai đoạn sớm này (early-stage dormancy phenomenon) góp phần vào sự thất bại của thuốc artesunate đơn thuần, hoặc thậm chí phối hợp với các thuốc khác. TS. Alexis LaCrue, trợ lý nghiên cứu tại đơn vị USF Department of Global Health, dẫn đầu nhóm nghiên cứu được tài trợ bởi Viện Nghiên cứu về dị ứng và bệnh truyền nhiễm quốc gia National Institute of Allergy and Infectious Diseases (NIAID). Sự xuất hiện dòng ký sinh trùng kháng thuốc artesunate dọc theo biên giới Thái Lan-Cambodia có thể là vấn đề nghiêm trọng, làm suy yếu các nỗ lực phòng chống sốt rét toàn cầu, theo WHO cho biết. “một vấn đề y tế công cộng khẩn cấp đòi hỏi phải hiểu biết tại sao kháng thuốc sốt rét xảy ra và cơ bản nó là gì, để mà chúng ta có thể giúp làm dừng lan rộng chúng” nhà nghiên cứu chính Dennis Kyle cho biết như vậy. “Nghiên cứu của chúng tôi có thể quy kết giống như một giai đoạn ngủ trong in vivo trên mô hình sốt rét gặm nhấm đã được thử nghiệm trước đây” - Kyle nói. “nghiên cứu này chỉ ra việc ngủ có liên quan đến giai đoạn sớm nhất của phát triển ký sinh trùng trong hồng cầu. Nó có thể là một cơ thế mới để cho KSTSR làm thế nào tránh được sự “phê thuốc” artemisinin. Khi các con chuột nhiễm KSTSR của gặm nhấm được điều trị bằng artesunate, ký sinh trùng ngủ (dormant parasites) hiện diện trong hồng cầu của chúng đến 24 giờ sau khi điều trị. Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy một mối liên quan dương tính hay chặt chẽ giữa số lượng các ký sinh trùng ngủ hiện diện và khi nhiễm sốt rét tái xuất hiện trên chuột. Nhiều nghiên cứu cần thêm để giải thích cơ chế đằng sau giai đoạn sớm ngủ và sự đóng góp của chúng vào thất bại điều trị. “giờ đây chúng ta có một thử nghiệm trên mô hình động vật để làm thế nào mà ký sinh trùng ngủ và làm thế nào chúng hồi phục” – tiến sĩ Kyle nói,chúng ta có thể thay đổi liều và đánh giá các thuốc đi kèm với thuốc artemisinin để giết các ký sinh trùng ngủ tốt hơn”. Các KSTSR lan truyền bởi muỗi nhiễm, ở người, chúng đi vào các tế bào máu và bắt đầu nhân lên sau khi ly giải từ giai đoạn đầu, gan. Một khi, ký sinh trùng thoát khỏi dòng máu, các triệu chứng bệnh xuất hiện gồm có run lạnh, sốt, nhức đầu, đau mình mẩy, nôn mửa và suy kiệt. Sốt rét ảnh hưởng đến 10% dân số thế giới, giết chết gần 1 triệu người mỗi năm tại các quốc gia đang phát triển và gây thiệt hại nền kinh tế. Hầu hếtt tử vong là các phụ nữ mang thai và trẻ em dưới 5 tuổi tại các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới châu Phi, châu Á và Nam Mỹ. Ngoài LaCrue và Kyle, các tác giả nghiên cứu là Misty Scheel, Katherine Kennedy và Nikesh Kumar – tất cả thành viên của nhóm nghiên cứu toàn cầu USF Global Infectious Disease Research. Artemisinin (ART) được khuyến cáo thuốc ưu tiên đầu trong điều trị sốt rét chưa biến chứng và sốt rét kháng thuốc do Plasmodium falciparum, loại KSTSR sinh bệnh sốt rét chiếm ứu thế. Tuy nhiên, thất bại điều trị sau liệu pháp đơn trị ART không phải là hay gặp và kháng thuốc với ART đã được báo cáo tại biên giới Thai Lan - Campuchia. Gần đây, các nghiên cứu in vitro chỉ ra rằng sau điều trị dihydroartemisinin (DHA), sự phát triển của ký sinh tùng giai thể nhẫn dừng lại đến 20 ngày. Các thể nhẫn sớm này ngừng lại (ví dụ: ngủ) có thể bị quy kết cho sự tái phát sau này (recrudescence) xảy ra sau khi điều trị đơn trị liệu ART. Để hiểu biết hơn về hiệu ứng và tác động đặc hiệu giai đoạn của thuốc ART và xác định tình trạng ngủ xảy ra trong điều kiện thử nghiệm in vivo, dẫn chất ART artesunate (AS) dùng để điều trị chuột nhiễm KSTSR loài gặm nhấm P. vinckei petteri (không gây chết) và P.v. vinckei (gây chết). Kết quả cho thấy rằng cả hai chủng gây chết và không gây chết, các KSTSR thể nhẫn kém nhạy nhất với điều trị AS và ngày điều trị dài hơn có tác động hơn lên trên sự tái phát hơn là tổng liều điều trị. Ngoài ra, sau điều trị 24 giờ với AS, thể ngủ (dormant form) tương tự trong hình thái học với nhũng gì đã nhìn thấy trên in vitro. Cuối cùng, tỷ lệ tái phát chỉ ra một mối liên quan chặt chẽ giữa số KSTSR ngủ có mặt và khi tái phát sớm xảy ra trên các vật chủ có xương sống. Các dữ liệu này cho thấy tình trạng ngủ xảy ra trên in vivo và góp phần vào tình trạng tái phát sau khi điều trị AS. Có thể điều này là một cơ chế mới giải thích sự sống sót KSTSR sau điều trị AS cũng như ART hay DHA sau này. 3. Đe dọa sốt rét kháng thuốc Artemisinin Vào năm 1970, các nhà khoa học của Trung Quốc làm một dự án mang tên “Project 523” phát triển một nhóm thuốc mới tiềm năng chống lại ký sinh trùng sốt ret, đó là artemisinins hay các dẫn suất của qinghaosu. Hầu hết các công trình này chưa ấn bản đã được công nhận bởi giải thưởng Lasker Award cho Tu Youyou vào năm 2011, các nhà nghiên cứu tại Trung Quốc phân lập chiết suất ra hợp chất có hoạt tính từ cây Artemisia annua, thử nghiệm chúng trên chuột, phân tích cấu trúc hóa học của artemisinins, cho thấy tiềm lực cao và hiệu lực nhanh trên các thử nghiệm ở người. mặc dù chúng đã được sử dụng rộng rãi tại Trung Quốc trong suốt những năm 1980, chỉ đến những năm 1990 thuốc artemisinin trở nên chú ý trên phạm vi toàn cầu với liệu pháp thuốc phối hợp ACTs (artemisinin-based combination therapies). Nhóm tác giả gồm Arjen M. Dondorp, Rick M. Fairhurst, Laurence Slutsker, John R. MacArthur, Joel G. Breman, Philippe J. Guerin, Thomas E. Wellems, Pascal Ringwald, Robert D. Newman và Christopher V. Plowe vừa mới đăng tải trên tạp chí N Engl J Med 2011; 365:1073-1075 September 22, 2011 đề cập vấn đề sốt rét kháng thuốc Artemisinine bị đe dọa. Hơn thập niên qua, các liệu pháp hiệu quả này cùng với các biện pháp phòng chống sốt rét khác đã góp phần quan trọng làm giảm gánh nặng sốt rét một cách quan trọng tại nhiều vùng trên thế giới, kể cả châu Phi. Đi cùng với những thành công và quỹ nghiên cứu gia tăng giúp cho loại trừ sốt rét trong thời gian đến. Khoảng ¼ quốc gia bị ảnh hưởng bởi sốt rét đã nổ lực tập trung vào phòng chống và loại trừ sốt rét. Những phương thức loại trừ sốt rét đã thành công trước đây đều lệ thuộc vào các thuốc điều trị tiệt căn, phối hợp với các biện pháp phòng chống vector. Tương tự, các kế hoạch loại trừ tương tự dựa vào các thuốc sốt rét có hiệu quả sẵn có trong một thời gian dài – mà điều cần là lệ thuộc vào hiệu quả thuốc Artemisinin. Dẫn chất Artemisinin loại Artesunate cũng chứng minh là một thuốc tốt nhất chống lại SRAT do P. falciparum. Kháng với thuốc artemisinins sẽ là một thảm họa cho chương trình phòng chống sốt rét và điều trị sốt rét và sẽ dẫn đến các nỗ lực phòng chống bị đình trệ. Giảm tính nhạy của Plasmodium falciparum với các dẫn suất Artemisinine đã được báo cáo tại vùng biên giới Campuchia- Thái Lan. Dù hầu hết các ca nhiễm trùng P. falciparum cuối cùng cũng bị làm sạch bởi thuốc ACTs (Artemisinin-based combination therapies), ký sinh trùng kháng phải mất 3-4 ngày để thực hiện, so với ký sinh trùng còn nhạy chỉ mất 2 ngày. Sự làm sạch ký sinh trùng này có thể là một bước. Vì thuốc artemisinins có thời gian bán hủy ngắn, việc mất tiềm năng này cũng góp phần cho loại trừ thuốc chậm, dẫn đến kháng thuốc. Mức độ đe dọa đã được nhận ra và một chương trình tham vọng để ngăn chặn kháng thuốc artemisinin đã được khởi động dưới sự hướng dẫn của WHO. Vẫn còn một vài vấn đề quan trọng về kháng artemisinin và cần thiết ngăn chặn kháng. Kháng thuốc sốt rét về mặt kinh điển xác định là sự tồn tại hoặc tái xuất hiện ký sinh trùng sau khi đã điều trị thuốc thích hợp. Tuy nhiên, thuốc đi kèm hiệu quả có thể làm mờ đi hiệu lực giảm của thành phần artemisinin trong liệu pháp phối hợp. Vì sự làm sạch ký sinh trùng ngay từ đầu nhanh là một điểm nổi bật của thuốc artemisinins, tỷ lệ khỏi (the slope of the log-linear parasite-clearance curve) là một phương pháp nhạy hơn để phát hiện tính nhạy giảm với artemisinins. Động lực của hoạt tính Artemisinin giết ký sinh trùng và các thuốc sốt rét khác). Một vấn đề quan trọng để loại trừ và ngăn chặn là làm thế nào làm sạch ký sinh trùng gây nên tái phát (recrudescence), tỷ lệ người mang giao bào (gametocyte-carriage rates) và tính nhiễm trên muỗi – các yếu tố ảnh hưởng lên gánh nặng bệnh và tiềm năng lan truyền bệnh. Hiểu biết về mặt sinh học của kháng artemisinin do P. falciparum là điểm quan trọng để phát triển liệu pháp điều trị mới và đáng tin cậy trong thử nghiệm in vitro, điều này hiện nay không có sẵn. Mô hình đường cong làm sạch KSTSR (modeling of parasite-clearance curves) cho thấy kháng Artemisinine ảnh hưởng lên KSTSR thể nhẫn hơn là tư dưỡng già và phân liệt. In vitro tests tập trùng vào quá trình ức chế ký sinh trùng thể nhẫn có thể là một công cụ có giá trị. Cơ chế phân tử hoặc các cơ chế kháng artemisinine vẫn chưa biết. Các markers phân tử có thể hỗ trợ ngăn chặn kháng tại Đông Nam Á, điều này bắt đầu với không biết gì về kháng artemisinin lan rộng hoặc tiến triển từ các điểm nguồn. Giám sát phân tử có thể chuẩn hóa nhanh chóng và triển khai rộng rãi hơn là giám sát dựa vào các đề cương lâm sàng hoặc in vitro. Các bằng chứng gần đây chỉ ra kháng là một dòng ký sinh trùng mang tính thừa hưởng di truyền (genetically heritable trait of the parasites), nhưng nghiên cứu để xác định các chỉ điểm kháng Artemisinin-vì thế từ lâu chỉ tập trung vào các gen ứng cử đặc hiệu, không có gen nào trong số này liên quan đến làm sạch KSTSR chậm. Nghiên cứu về bộ gen một cách chi tiết trên nền phân tử của làm sạch KSTSR chậm, các nghiên cứu sử dụng liên quan đến bộ gen và tiếp cận như là một lựa chọn mạnh gần đây. WHO đang phối hợp với các đối tác và nhà tài trợ gần đây đã khởi động một kế hoạch mang tính toàn cầu là Global Plan for Artemisinin Resistance Containment (GPARC). Các nghiên cứu đáng tin cậy về có hay không kháng artemisinin đã lan tỏa hoặc tự do sau khi điểm vùng biên giới Campuchia-Thái Lan cần thiết ngăn chặn. Nếu kháng bị hạn chế trong một vùng hạn định, việc loại trừ tất cả KSTSR P. falciparum từ vùng này sẽ là cách duy nhất để ngăn chặn kháng artemisinin khỏi lan rộng. Ngoài các biện pháp can thiệp sau bên cạnh các biện pháp phòng chống kinh điển. Tại Đông Nam Á, các yếu tố như quần thể dân di biến động (mobile migrant populations) và muỗi trú ngụ trong rừng (forest-dwelling mosquitoes) có thể làm cho các biện pháp phòng chống vector như dùng màn và phun ít óc hiệu quả, việc cần thiết khi đó phải dựa vào thuốc. Các biện pháp khả thi gồm chiến dịch chỉ định thuốc hàng loạt trong vùng và sàng lọc, điều trị người mang KSTSR, cả hai điều này có ưu và nhược về mặt thực hành và lý thuyết. Mô hình toán hoạc có thể là một công cụ quan trọng dẫn đường cho các chiến lược này. Primaquine hiện là thuốc sẵn có duy nhất mà có thể ngăn chặn lan truyền các giao bào trường thành, thể hữu tính của KSTSR chịu trách nhiệm về vấn đề lan truyền. Dù liều thấp là giết giao bào, các vấn đề tồn tại liên quan ngay cả liều thấp có thể gây tan máu trong lòng mạch trên các bệnh nhân thiếu men G6PDH và việc đánh giá thêm là cần thiết trước khi sử dụng primaquine hàng loạt khuyến cáo. Nghiên cứu về hành vi và thực hành để đảm bảo triển khai một cách tối ưu, bao phủ và rõ nghĩa của chiến lược ngăn chặn là quan trọng, gồm các hoạt động loại bỏ liệu pháp đơn trị liệu artemisinin theo đường uống – tránh lan rộng kháng thuốc. Vì thật là cần thiết các nỗ lực ngăn chặn đối với nhóm dân di biến động, nên các nghiên cứu phải được tiến hành các mô hình di biến động và hành vi chăm sóc sức khỏe. Một vấn đề quan trọng khác là việc sử dụng trên thị trường các thuốc giả (counterfeit or falsified antimalarial drugs), thường chứa một ít thuốc artemisinin, điều này không chỉ đơn thuần đe dọa tính mạng do điều trị không đầy đủ mà còn tăng áp lực lựa chọn thuốc, có thể dẫn đến kháng. Giám sát chất lượng thuốc, cung cấp thuốc theo đúng quy trình, theo điều luật kinh doanh, nâng cao nhận thức, tiến hành các nghiên cứu và các biện pháp nâng cao phát hiện thuốc kém chất lượng hoặc thuốc giả là rất cần thiết. Interpol, các nhà chức trách, các công ty dược, nhóm chuyên trách và hội đồng dược điển Mỹ và WHO phối hợp cho hành động này. Mối đe dọa biểu hiện kể từ khi kháng artemisinin xuất hiện tại khu vực biên giới Campuchia-Thái Lan đã phổ biến kiến thức lan rộng, nhưng đáp ứng hiệu quả và các vấn đề nghiên cứu cơ bản được trả lời nhanh chóng. Các nhà nghiên cứu, các nhà tài trợ và các nhà làm chính sách phải được nhận ra vấn đề khẩn cấp của vấn động, lấp các khoảng trống kiến thức quan trọng và ngay lập tức tập trung loại trừ mối đe dọa kháng artemisinin. Sẽ thật cần thiết phối hợp nghiên cứu và ngăn chặn phạm vi toàn cầu, chia sẻ thông tin, công cụ nghiên cứu và kinh nghiệm. Viện phối hợp hành động của WHO, mạng lưới nghiên cứu kháng thuốc toàn cầu the World Wide Antimalarial Resistance Network (WWARN) và Trung tâm nguồn Malaria Research and Reference Reagent Resource Center (MRRRRC). Artemisinin đã quyết định với các thành công gần đây trong việc giảm gánh nặng sốt rét, liệu pháp ACTs (artemisinin-based combination therapies) cần cho các kế hoạch loại trừ sốt rét. Kháng artemisinins không chỉ gây nguy hiểm cho mục tiêu triệt trừ sốt rét mà còn sẽ dẫn đến làm tăng tỷ lệ tử vong trên các trẻ em châu Phi, như đã từng xảy ra khi chloroquine thất bại do kháng. Quan điểm trình bày trong bài báo này do các tác giả và không cần thiết trình bày quyết định, chính sách và quan điểm của WHO, CDC hoặc viện sức khỏe quốc gia (National Institutes of Health).
|