|
Balantidium coli (http://en.wikipedia.org) |
Trùng lông Balantidium coli gây bệnh đường tiêu hóa
Trùng lông còn được gọi là mao trùng vì nó chuyển động bằng lông. Có nhiều loại trùng lông khác nhau, các nhà khoa học đã căn cứ vào sự sắp xếp của lông để phân loại. Trong các loại thường gặp, trùng lông Balantidium coli sống ký sinh và gây bệnh cho người. Chúng thuộc nhóm có lông chung quanh bào khẩu, lông mọc dài và rậm hơn ở các vùng khác của cơ thể. Đặc điểm loại trùng lông Balantidium coli Nguồn bệnh của trùng lông là những người bệnh bị nhiễm Balantidium coli cấp tính hoặc mạn tính và người lành mang trùng. Trước đây nhiều nhà khoa học cho rằng loài lợn cũng là nguồn bệnh vì trong phân lợn thường phát hiện thấy trùng lông giống y hệt như Balantidium coli nhưng do chúng ký sinh ở lợn nên được gọi tên là Balantidium suis. Qua nghiên cứu về đặc điểm sinh học, các nhà khoa học đã xác định Balantidium suis là loài khác với Balantidium coli. Để chứng minh cho vấn đề này, các nhà nghiên cứu đã dùng Balantidium suis gây bệnh cho người nhưng không có kết quả. Tuy nhiên hiện nay vẫn có một số nghiên cứu công bố xác định nguồn bệnh cũng có ở loài lợn. Trùng lông Balantidium coli sống chủ yếu ở manh tràng và thỉnh thoảng cũng phát hiện ở đoạn cuối của hồi tràng. Chúng ăn vi khuẩn, các tinh bột chưa tiêu hóa hết và đôi khi ăn ngay cả cá thể đồng loại. Balantidium coli sinh sản bằng phương thức phân chia theo chiều ngang, ngoài ra còn thực hiện theo phương thức sinh sản tiếp hợp. Phương thức sinh sản tiếp hợp được thực hiện bằng cách hai cá thể trùng lông áp bào khẩu vào nhau, nhân lớn tan ra và nhập vào nguyên sinh chất. Nhân nhỏ chia làm bốn rồi lại mất đi ba, còn một. Từ một nhân còn lại sẽ chia làm hai, rồi một nhân ở cá thể này sang ghép với nhân còn lại của cá thể kia hợp thành một nhân duy nhất. Từ nhân duy nhất lại hình thành nhân lớn và nhân nhỏ; sau đó hai cá thể tách rời nhau. Số lượng trùng lông không tăng nhưng hai cá thể mới đã được trẻ hóa và có sức sống mạnh hơn. Trùng lông Balantidium coli hình thành thể kén khi ở điều kiện môi trường bất lợi như gặp phân rắn, độ pH thay đổi... Kén sẽ theo phân ra ngoại cảnh, từ môi trường ngoại cảnh kén xâm nhập vào cơ thể người qua đường tiêu hóa, di chuyển đến manh tràng và biến thành thể hoạt động. Bản chất của loại trùng lông Balantidium coli là sống hội sinh, chúng chỉ tấn công vào thành ruột để gây bệnh khi niêm mạc ruột bị tổn thương do một nguyên nhân nào đó. Thông thường niêm mạc ruột bị tổn thương do nhiễm trùng, nhiễm độc thức ăn, thương hàn, lỵ trực khuẩn... Các thể loại của trùng lông Balantidium coli Trùng lông Balantidium coli có hai thể loại là thể hoạt động và thể kén. Cả hai thể hoạt động và thể kén của trùng lông đều là mầm bệnh. -Thể hoạt động: có hình trứng, không đối xứng, phía đầu hơi nhọn, phía đuôi hơi tròn. Kích thước trung bình chiều dài khoảng từ 50-70 µm, chiều rộng khoảng từ 40-60 µm. Toàn thân trùng lông có màng bọc, trên màng có những hàng lông mọc song song. Gần đầu trùng lông có một khe nhỏ gọi là bào khẩu (cytostome), có lông để vơ nuốt thức ăn. Phía đuôi có một khe nhỏ gọi là hậu môn (cytopyre) để bài tiết. Bào tương của trùng lông có hai lớp, lớp ngoài rất mỏng nên khó quan sát thấy; lớp trong chứa các không bào tiêu hóa, trong đó có nhiều vi khuẩn, mảnh thức ăn và có hai không bào co bóp thường ở phía sau thân. Nhân của trùng lông có hai loại, loại nhân lớn hình hạt đậu giữ chức năng dinh dưỡng; loại nhân nhỏ nằm ở chỗ lõm của nhân lớn giữ chức năng sinh sản và thường bị che lấp nên khó nhìn thấy. Thể hoạt động của trùng lông di chuyển rất nhanh và mạnh nhờ có những hàng lông luôn luôn chuyển động như mái chèo. Chúng vừa di chuyển vừa xoay mình như mũi khoan tiến về phía trước. Nhờ có màng thân rất đàn hồi nên trùng lông có thể uốn thân mình, biến dạng và vượt qua được các vật cản một cách dễ dàng. Thể hoạt động của trùng lông sống lâu ở ngoại cảnh và có thể xâm nhập vào đường tiêu hóa một cách dễ dàng mà không bị tiêu diệt. - Thể kén: có dạng hình cầu, kích thước trung bình khoảng từ 50-60 µm. Chúng có hai lớp vỏ dày, bên trong có loại nhân to, nhân nhỏ và có không bào co bóp. Thể kén của trùng lông trong điều kiện nhiệt độ từ 18-20oC và độ ẩm cao có thể sống được khoảng 2 tháng. Với điều kiện khí hậu khô, không có ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp vào thì có thể sống được khoảng từ 1-2 tuần. Dưới ánh sáng mặt trời, chúng chỉ sống được khoảng 3 giờ. Các loại dung dịch như phenol 5% có thể diệt được thể kén sau 3 giờ, phenol 10% có thể diệt được thể kén sau 4 giờ. Triệu chứng bệnh lý do nhiễm trùng lông Balantidium coli Với bản chất loại trùng lông Balantidium coli có lối sống hội sinh nên có nhiều trường hợp tình cờ xét nghiệm phân người phát hiện thấy thể kén của trùng lông nhưng trên lâm sàng không có biểu hiện triệu chứng bệnh lý nào. Khi Balantidium coli chuyển sang dạng sống ký sinh, trùng lông gây hoại tử mô ở thành manh tràng. Tại đây, Balantidium coli tiếp tục sinh sản, phá hủy mô thành ruột làm cho các thương tổn vết loét ngày càng rộng, càng sâu. Sự phá hủy thành ruột của Balantidium coli mạnh hơn vì có thêm tác động của yếu tố cơ học, do đó trùng lông có thể xâm nhập sâu vào thành ruột và gây thủng ruột; hiện tượng này chủ yếu hầu như chỉ xảy ra ở đại tràng. Biểu hiện triệu chứng lâm sàng do loại trùng lông Balantidium coli gây ra thường ghi nhận những dấu hiệu như đau bụng, đi tiêu chảy có thể đến 15 lần mỗi ngày; mót rặn, phân có chất nhầy, máu. Nếu không được phát hiện và điều trị kịp thời, người bệnh có thể bị tử vong. Tỷ lệ tử vong do bệnh trùng lông Balantidium coli gây nên có thể chiếm đến 29%. Nguyên nhân tử vong thường do biến chứng thủng ruột, xuất huyết đường tiêu hóa... Hội chứng lỵ do nhiễm trùng roi Balantidium coli gây ra cũng có thể diễn biến thành mạn tính, thời gian mắc bệnh có khi kéo dài đến 20 năm và trong khoảng thời gian này thỉnh thoảng xuất hiện các đợt tái phát cấp tính. Chẩn đoán, điều trị và phòng bệnh Chẩn đoán bệnh nhiễm trùng lông Balantidium coli có thể dựa vào triệu chứng lâm sàng để gợi ý; tuy nhiên dấu hiệu của hội chứng lỵ do trùng roi gây ra thường khó phân biệt với hội chứng lỵ do trực khuẩn hoặc amíp gây ra. Vì vậy trong những trường hợp này, cần thực hiện thủ thuật cận lâm sàng như soi trực tràng có thể thấy vết loét đặc trưng do trùng lông Balantidium coli gây nên với đặc điểm vết loét thường rộng, sâu, đáy thường có phủ mủ, mô bị hoại tử... Ngoài ra, có thể xét nghiệm phân để tìm Balantidium coli. Điều trị bệnh nhân bị nhiễm Balantidium được thực hiện theo nguyên tắc điều trị giống như điều trị bệnh lỵ amíp. Các loại thuốc điều trị đặc hiệu có hiệu lực tốt thuộc các dẫn chất của emetine như emetine chlohydrate, dehydroemetine...; các dẫn chất của iode như yatren, mixiode...; các dẫn chất của asen như carbazole, bemarsal... hoặc loại thuốc metronidazole với các biệt dược như flagyl, klion, entizol, orvagyl... Phòng bệnh nhiễm trùng lông Balantidium coli được thực hiện bằng các biện pháp giống như phòng chống bệnh lỵ amíp, chủ yếu là bảo đảm vệ sinh ăn uống, vệ sinh nguồn nước sử dụng và quản lý chặt chẽ nguồn phân thải. Khuyến nghị Bệnh do trùng lông Balantidium coli hầu như phân bố rộng rãi ở khắp nơi trên thế giới, kể cả Việt Nam nhưng nhìn chung số lượng người mắc không nhiều qua phát hiện. Ở nước ta qua điều tra nghiên cứu của Viện Vệ sinh Dịch tễ trước đây ghi nhận tỷ lệ nhiễm loại trùng lông Balantidium coli chỉ chiếm khoảng 0,12%. Tuy vậy, đây là một loại bệnh ký sinh trùng đường ruột có thể gây nên gây hội chứng lỵ với các biến chứng như thủng ruột, xuất huyết đường tiêu hóa... làm cho bệnh nhân có nguy cơ bị tử vong nếu các cơ sở y tế chủ quan, lơ là. Đừng để bệnh này trở thành một bệnh bị lãng quên như một số loại bệnh ký sinh trùng khác đã được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo.
|