Đáp ứng miễn dịch trong bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo
Một số điểm liên quan đến miễn dịch đối với bệnh ấu trùng/ giun đũa Toxocara canis/ catiNền tảng phân tử cơ bản về sự xâm nhập và nhận ra khi nhiễm Toxocara canis gần đây cũng đã được một nhóm nghiên cứu (Maizels RM và cs., 2012) tại Viện miễn dịch và nghiên cứu nhiễm trùng, đại học Edinburgh, Ashworth Laboratories, Anh. Nghiên cứu chỉ ra rằng Toxocara canis là các khác thường do ấu trùng sống sót nhiều năm trong các mô của nhiều loại vật chủ có xương sống khác nhau, cũng như phát triển đến trưởng thành trong đường ruột của các vật chủ chính là chó. Bệnh ở người gây ra bởi giai đoạn ấu trùng xâm nhập vào hệ cơ, não và mắt và odw chế miễn dịch dường như không hiệu quả để loại bỏ nhiễm trùng. Các ấu trùng T. canis sống sót có thể góp phần vào hai chiến lược phân tử bởi ký sinh trùng. Trước tiên, nó ly giiar ra một lượng sản phẩn chứa kháng nguyên tiết gồm lectins, mucins và các enzymes mà tương tác và điều hòa miễn dịch vật chủ. Chẳng hạn, một lectin (CTL-1) rất giống với các lectin của động vật có vú, đòi hỏi cho phản ứng viêm ở mô, cho thấy T. canis có thể can thiệp vào sự thoát mạch của bạch cầu vào trong vị trí nhiễm. Chiến lược thứ hai lớp cáo đặc trưng bè mặt giàu chất mucin; điều này là các tế bào lỏng lẻo khi dính vào phần epicuticle ký sinh trùng cho phép thoát nhanh khỏi các tế bào và hệ thống kháng thể của ký chủ dẫn đến một phản ứng viêm quanh vùng nhiễm mới. Mucins đặc trưng bởi nhiều chuỗi gắn glycan sát nhau, gồm các trisaccharide giống nhóm máu với một hay hai O-methylation.Cả lectins và các trisaccharides này là đích với các kháng thể vật chủ, với kháng thể chống lại lectin cho thấy hứa hẹn một hướng chẩn đoán tương lại. Các kháng thể chống lại monomethylated trisaccharide dược như là đặc hiệu với , khi các epitope này không tìm thấy có liên quan chặt chẽ với Toxocara cati, nhưng tất cả các yếu tố quyết định kháng nguyên rất giống giữa hai loài này. Sự khác biệt này có thể quan trọng trong thiết kế một test chẩn đoán mới và chính xác hơn. Các công cụ nhiều hơn để chống lại bệnh ấu trùng giun đũa chó cũng có thể tăng lên từ sự hiểu biết về các tín hiệu phân tử liên quan đến sự phát triển ấu trùng. Ấu trùng nuôi cấy trên in vitro biểu hiện mức độ cao với 4 mRNAs dịch mã ẩn, vì các protein mà chúng mã hóa không thể phát hiện trong ấu trùng nuôi cấy. Song, điều này dường như sinh ra một khi ký sinh trùng đi vào các vật chủ là các động vật có vú, vì chúng được nhận ra bởi các kháng thể đặc hiệu trên các bệnh nhân bị nhiễm. Làm sáng tỏ chức năng của các gen này hoặc phân tích nếu sự ức chế các micro-RNA dịch mã của các proteins, có thể chỉ ra đích tác dụng thuốc mới đối với các ký sinh trùng giai đoạn trong mô ở người. Bệnh ấu trùng giun đũa chó có ấu trùng di chuyển và gây thương tổn cơ quan mắt là một trong hai hội chứng hay gặp của tác nhân ký sinh trùng này (Wooodhall D và cs., 2012) qua một nghiên cứu bệnh lý ấu trùng này tại mắt tại khoa bệnh ký sinh trùng và sốt rét của trung tâm CDC Mỹ với các khía cạnh giải phẩu, dịch tễ học, thay đổi điều trị. Để đánh giá gánh nặng hiện tại về bệnh ấu trùng giun đũa chó mắt (ocular toxocariasis_OT) và thu thập kiến thức liên quan chẩn đoán và thực hành điều trị được ứng dụng bởi các bác sĩ chuyên khoa mắt tại Mỹ. Phương pháp nghiên cứu là điều tra cắt ngang dựa vào web-based. Các bác sĩ chuyên khoa mắt chuyên về ký sinh trùng hiện đang thực hành tại Mỹ. Một điều tra theo đường điện tử internet gởi đến 3.020 chuyên gia về mắt thuộc Hội American Uveitis Society (AUS), American Society of Retina Specialists (ASRS), hoặc American Association for Pediatric Ophthalmology and Strabismus (AAPOS) để nắp bắt về các thông số nhân chủng học, lâm sàng, chẩn đoán và dữ liệu điều trị trên các bệnh nhân mắc bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo tại mắt (OT) tìm thấy trong quá trình thực hành lâm sàng của họ từ tháng 9.2009 đến 10.2010. Các dữ liệu về dân sô, dịch tễ học và lâm sàng của từng mỗi bệnh nhân được báo cáo với OT. Tổng số 159 bệnh nhân mắc OT được báo cáo qua 559 điều tra (19%). Tuổi trung bình của bệnh nhân là 11,5 tuổi (range, 1-66 năm). Có 72 bệnh nhân (45%) có OT sống trong vùng phía nam của Mỹ. 31 (69%) trong số 45 bệnh nhân mắc OT là chủ của chó hoặc mèo. Mất thị lực được báo cáo trên 46 (85%) trong số 54 bệnh nhân bị OT; 32 (71%) trên 45 bệnh nhân giảm thị lực vĩnh viễn, 13 bệnh nhân (29%) giảm thị lực tạm thời và trong quá trình giảm thị lực không có báo cáo 1 bệnh nhân. Trong số 32 bệnh nhân bị OT giảm thị lực vĩnh viễn, có 30 (94%) có sẹo hoặc khối u hạt dưới võng mạc (subretinal granulomatous mass/scar), u hạt ngoại vi (peripheral granuloma) với dải băng kéo hoặc u hạt ở cực sau của mắt (posterior pole granuloma) đáng lưu ý khi khám mắt. Vết sẹo/ khối u hạt dưới võng mạc, viêm vitritis và ám điểm (scotoma) là các dấu hiệu hay gặp nhất khi khám mắt của bệnh nhân mắc OT. Bệnh ấu trùng OT vẫn tiếp tục xảy ra tại Mỹ, nơi mà chúng đã ảnh hưởng đến phần lớn trẻ em và gây giảm thị lực vĩnh viễn trên nhiều bệnh nhân. Các chuyên gia chăm sóc y tế cho lời khuyên bệnh nhân và các thành viên gia đình về các chiến lược phòng bệnh làm giảm tỷ lệ nhiễm và tỷ lệ mắc bệnh do Toxocara. Do đó, câng nâng cao chẩn đoán và công cụ điều trị cần thiết hỗ trợ các nhà nhãn khoa trong điều trị OT. Pinelli, Elena và cộng sự (2009) nghiên cứu về nhiễm trùng ấu trùng giun đũa chó với đặc điểm dị ứng cho biết Toxocara canis và Toxocara cati là các loại giun tròn của chó và mèo mà có thể chuyển sang gây bệnh ở người trên toàn thế giới. Mặc dù, các ký sinh trùng này không đạt đến giai đoạn trưởng thành trong cơ thể người, nên ấu trùng có xu hướng di chuyển đến các cơ quan khác nhau và có thể tồn tại trong nhiều năm. Sự di chuyển ấu trùng đi qua phổi có thể dẫn đến các triệu chứng suy hô hấp như khò khè, ho, tăng tiết đờm và tăng kích ứng với đường thở. Các nghiên cứu về dịch tễ học và thực nghiệm cho thấy với sự đóng góp của loài giun này góp phần vào sự phát triển của các đặc điểm lâm sàng của dị ứng, kể cả hen phế quản. Tuy nhiên, các thử nghiệm này đang bị đưa ra tranh luận vì một số nghiên cứu khác chỉ ra chưa có mối liên quan bệnh học moieenx dịch giữa hai bệnh này tìm thấy. Bài tổng hợp này cho thấy thông tin về bệnh Toxocara spp. và tìm thấy từ các nghiên cứu dịch tễ học và thực nghiệm về mối liên quan giữa nhiễm trùng Toxocara và bệnh dị ứng. Ngoài ra, các cơ chế miễn dịch học và yếu tố liên quan vào liên quan dị ứng – giun sán đang được tranh luận. Một nhóm nghiên cứu tiến hành xem xét việc phát hiện kháng thể trên trẻ em tiểu học ở Vitoria, bang Espírito Santo, Brazil về khía cạnh tỷ lệ hiện mắc và yếu tố liên quan (Fragoso RP và cs., 2011). Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá tỷ lệ kháng thể chống Toxocara trong huyết thanh từ các trẻ em 7 tuổi đang học tiểu học và mối liên quan các kháng thể này với các yếu tố nhân chủng học và xã hội, sự có mặt của các loại giun sán đường ruột khác, số bạch cầu ái toan trong máu, tiền sử dị ứng hoặc hen và đặc điểm lâm sàng nhiễm bệnh. Sự phát hiện các kháng thể chống lại Toxocara thực hiện nhờ vào sử dụng ELISA (Cellabs Pty Ltd) trên các mẫu huyết thanh từ 391 trẻ em tham gia xét nghiệm phân và máu. Các dữ liệu lâm sàng và thăm khám được thu nhận trên tất cả trẻ. Tỷ lệ kháng thể là 51,6%, khong có sự khác biệt nhau giữa hai giới và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa tình trạng huyết thanh dương tính và sự có mặt hay vắng mặt giun đường ruột. Chỉ có các biến số có liên quan ý nghĩa đến huyết thanh dương tính là các bệnh lý về móng và sử dụng nước không lọc. Mặc dù số lượng bạch cầu ái toan tăng (> 600/mm³) có liên quan ý nghĩa đến sự xuất hiện kết quả ELISa dương tính, điều này biến mất có ý nghĩa khi trẻ không có giun hoặc không có tiền sử bệnh sử dị ứng hoặc hen phế quản. Không thấy triệu chứng lâm sàng liên quan đến nhiễm trùng Toxocara được phát hiện. Tỷ lệ kháng thể chống lại Toxocara nhiễm cao trên các trẻ em tiểu học ở Vistoria, ddieuf này có thể liên quan một phần đến phản ứng chéo với giun đường ruột hoặc tỷ lệ nhiễm cao với số lượng trứng Toxocara. Một thử nghiệm đánh giá quá trình sinh kháng thể đơn dòng chống lại ấu trùng giai đoạn 2 của Toxocara cati và ứng dụng của nó trong phát hiện các kháng nguyên lưu hành (Zibaei M và cs., 2010) tại khoa vi nấm, đại học y khoa Khorram Abad, Iran cho thấy bệnh ấu trùng giun đũa chó là một bệnh ký sinh trùng lây truyền từ động vật sang người quan trọng gây bởi ấu trùng giia đoạn 2 của loài Toxocara. Bệnh ở người thường được chẩn đoán bởi huyết thanh miễn dịch. Trong nghiên cứu này, họ đã dùng phát hiện các kháng thể đơn dòng đặc hiệu cho T. cati và thực hiện các thí nghiệm sau sử dụng khác thể này để làm tăng độ nhạy của phát hiện kháng nguyên qua ELISA. Các isotype của kháng thể đơn dòng là IgG3. sử dụng các kháng thể đơn dòng này, một phản ứng ELISA capture được tiến hành. Các kháng thể đơn dòng được sinh ra tái hoạt với kháng nguyên tiết của T. cati với bản chất tự nhiên của protein nhưng không với các kháng nguyên T. cati khác. Một kháng thể đơn dòng được làm tăng chống lại kháng nguyên tiết của ấu trùng giai đoạn T. cati. Không thấy phản ứng chéo với các kháng nguyên của Ascaris suum, Dirofilaria immitis, Trichostrongylus orientalis, ấu trùng đóng kén của Trichinella spiralis và ấu trùng metacercariae của Centrocestus armatus. Hệ thống đủ nhạy để phát hiện 5 ng/mL của kháng nguyên lưu hành trong huyết thanh. Các kết quả này chỉ ra một hệ thống phát hiện kháng nguyên mới cung cấp một phương pháp hữu ích cho chẩn đoán hội chứng VLMs và OLMs gây ra bởi T. cati và như một biện pháp lấp khoảng trống các tồn tại ở các công cụ chẩn đoán huyết thanh học khác. Nhóm tác giả Chen J, Zhou DH, Nisbet AJ, Xu MJ, Huang SY, Li MW, Wang CR, Zhu XQ (2012) nghiên cứu về các tiến bộ trong việc xác định phân tử, phân loại, khác biệt di truyền và chẩn đoán Toxocara spp. tại la bô sinh học thú y, Viện nghiên cứu thú y Lanzhou, Trung Quốc. Kết quả coh biết giống Toxocara chứa các giun tròn ký sinh và gây bệnh có ý nghĩa trên người và động vật, như Toxocara canis, Toxocara cati và Toxocara vitulorum. T. canis và T. cati là trong số các ký sinh trùng gặp nhiều nhất trên chó và mèo với sự phân bố rộng khắp trên thế giới. Nhiễm trùng ở người với T. canis và T. cati, có thể dẫn đến một số triệu chứng như VLMs và OLMs và viêm não màng não tăng bạch cầu ái toan (eosinophilic meningoencephalitis_EME), thể ẩn (Covert toxocariasis_CT) và bệnh lý thần kinh do giun đũa chó mèo (Neurotoxocariasis) được xem lưu hành và bệnh giun sán bị lãng quên tại các quốc gia công nghiệp. Xác định chính xác Toxocara spp. và chẩn đoán phân biệt rõ ràng từ giun tròn này với giun tròn khác giống ascaridoid gây nên bệnh lý VLMs và OLMs có tầm quan trọng để nghiên cứu về phân loại học, dịch tễ học, di truyền quần thể, chẩn đoán và phòng chống. Do hạn chế về các phương pháp chẩn đoán về hình thái học để xác định và chẩn đoán loài Toxocara spp., nên kỹ thuật dựa vào PCR được ứng dụng như một loạt các chỉ điểm di truyền trong bộ gen ty thể và bộ gen nhân đã đưa vào nghiên cứu như công cụ thay thế vì độ nhạy, độ đặc hiệu cao và nhanh cũng như tính ứng dụng tốt.
|