Home TRANG CHỦ Thứ 7, ngày 23/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 9 7 0 5 7
Số người đang truy cập
3 0 3
 Chuyên đề Giun
Thông tin cập nhật mới nhất về bệnh ấu trùng giun đũa chó/mèo trên người

Bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo ở người gây ra bởi ấu trùng hay giun chưa trưởng thành, hoặc của giun tròn của chó (Toxocara canis), hay của mèo (Toxocara cati) hay cáo(Toxocara canis).

Theo phân loại y khoa của các bảng phân loại khác nhau, bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo xếp theo như sau: theo CDC-10 là B83.0 (ILDS B83.01), Disease DB là 29739; theo Emedicine là med/2293ped/2270 và MéH là D014120 Toxocariasis is often called visceral larva migrans (VLM). Tùy thuộc vào vị trí địa lý, mức độ bạch cầu ái toan cùng các triệu chứng hay dấu chứng ở phổi, mắt nên tên gọi cũng khác nhau: như hội chứng ấu trùng di chuyển phủ tạng (VLMs), ấu trùng di chuyển ở mắt (OLMs) hay thể mơ hồ không điển hình (CTs), bệnh Weingarten's, hội chứng Frimodt-Moller và hội chứng giả tăng bạch cầu kèm theo tăng bạch cầu ái toan pseudoleukemia. Nhiễm trùng giun sán là một nguyên nhân hay bệnh truyền từ động vật truyền sang người dẫn đến mù và có thể biểu hiện triệu chứng ở khớp, thần kinh và hen phế quản.

Một phương thức lây truyền bệnh do Toxocara Canis mới?

Theo tác giả Carly Jordan (2010) cho biết T. canis là một trong những tác nhân gây ra cả hội chứng ấu trùng di chuyển tại mắt và hội chứng ấu trùng di chuyển phủ tạng trên các vật chủ của nó, biểu hiện một mối đe dọa sức khỏe cộng đồng toàn cầu. Ngoài ra, bệnh do ấu trùng giun đũa chó là một bệnh nhiễm trùng giun phổ biến tại Mỹ. Phương thức nhiễm đầu tiên ở người là tiếp xúc với đất nhiễm bệnh; tuy nhiên, xác định gần đây có trứng T. canis trên lông chó đặt ra một câu hỏi liên quan đến nguy cơ bệnh ấu trùng này thông qua tiếp xúc trực tiếp với các vật cưng như chó. Một vài bài báo mâu thuẫn cho ra các kết quả khác nhau gần đây cho biết tỷ lệ nhiễm trứng T. canis (cả trứng tạo phôi và chưa tạo phôi) trên lông của chó. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ nhiễm trên các chó cưng được xét nghiệm qua các mẫu lông thu thập từ vùng đầu, cổ, lưng và vùng quanh hậu môn của 182 con vật qua chăm sóc thú y tại các củi chó ở Dublin, Ireland.
 

Tổng số 16 con chó bị nhiễm trên lớp lông và 26 trứng định lượng (2trứng đã chết, 23 trứng chưa tạo phôi và 1 đang tạo phôi). Tỷ lệ nhiễm T. canis là 8,8% và trung bình 4,24 trứng được xác định trên một gan lông. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số lương trứng trên các phần lông ở đầu, cổ, thân kình, lưng hay vùng quanh hậu môn; các con chó lớn hơn có mang trứng trên lông nhiều hơn con chó nhỏ hơn một tuổi. Nghiêncứu này được báo cáo bởi Bayer Animal Health

Nghiên cứu này cho thấy các có cưng mà chủ chó thực hiện khâu chăm sóc thích hợp sẽ có nguy cơ thấp nhất cho việc tiếp xúc dẫn đến lan truyền bệnh T. canis từ chó sang người. Các con chó trong nghiên cứu này có thể điều trị bằng thuốc chống ký sinh trùng dự phòng và tắm rửa chải lông thường xuyên sẽ góp phần có ý nghĩa việc giảm thấp tỷ lệ nhiễm T. canis. Một điểm cần quan tâm trong nghiên cứu này là các con chó đó với trứng T. canis trên lưng của chúng do chúng thường lăn trườn trên đất và cỏ. Các nhà lâm sàng có thể khuyên các chủ nuôi chó hạn chế hành vi trong các công viên công cộng để giảm nguy cơ nhiễm trên lông chó [Carly Jordan (2010), “A New Mode of Toxocara Canis Transmission?”, Vet Parasitol, 173:161-164, 2010].

Về khía cạnh sinh thái y khoa

Môi trường sinh lý đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì và phân bố các trứng nhiễm của T. canisT. cati, mặc dù điều này vẫn chưa hiểu và đánh giá hết. Tuy nhiên, các chương trình phòng chống hiệu quả đang triển khai có thể đòi hỏi khía cạnh này cần phải làm chi tiết hơn. Các trứng giun giai đoạn nhiễm của các loài có thể sống kéo dài từ vài tháng đến vài năm ngoài môi trường trong điều kiện tối ưu do lớp vỏ bên ngoài đề kháng với các chất đó. Lớp ngoài cùng không phải tế bào này có thể chịu đựng với các hóa chất mạnh khác nhau như các hóa chất formalin và acid vô cơ khác có nồng độ cao, hay trong điều kiện thay đổi nhiệt độ nghiêm trọng, độ ẩm thay đổi khác nhau. Các chiến lược tương lai để làm giảm số trứng nhiễm trong đất phải tìm cách mới để làm phá vở lớp vỏ trứng mà nó đã bảo vệ vỏ trứng của các giun chưa trưởng thành khỏi môi trường bên ngoài.
 

Các giun đất và động vật có vú nhỏ đóng vai trò quan trọng trong việc phát tán trứng từ một nguồn nhiễm. Làm đất tơi xốp cũng là một trong những biện pháp khiến cho trên bề mặt đất không thể tồn tại trứng giun còn sống. Các trứng còn sống trở nên kết hợp chặt chẽ trong các viên phân của chúng và rồi chúng phân bố ngẫu nhiên khắp vùng tại chỗ nhờ vào nước mưa và gió. Các động vật có vú như chó, mèo, sóc, chuột đóng vai trò quan trọng, mặc dù ít hiệu quả trong việc phân bổ trứng tạo phôi. Các con chim ăn mồi từ các sàn đất (như chim bồ câu, chim sẻ, chim sáo đá) có thể đóng vai trò như các vật chủng trung gian, mang trứng từ nơi này đến nơi khác qua vết chân đi và có thể bị quy kết là chứa trứng lan đến các nơi khác từ một nguồn nhiễm ban đầu.

Một cơ chế khác cho việc phát tán trứng là nguồn nước uống. Trong một nghiên cứu, các bãi biển công cộng liền kề với nguồn nước uống của thành phố hay thị xã như tại Moscow, Nga đã cho thấy vấn đề đây là một nguồn nhiễm quan trọng. Các tác giả suy xét và nghiên cứu thông qua việc cho phép các con chó tiếp cận tự do với các vùng có khu giải trí, điều này làm gia tăng khả năng các trứng Toxocara đi vào cột nước của các hồ. các bộ đồ bơi và các nguồn nước uống tình cờ khi người bơi, lội và cho phép có khả năng nuốt phải trứng giun giai đoạn nhiễm. Ngoài ra, bối cảnh này cũng có thể dẫn đến trứng nhiễm trong các vòi nước.
 

Một số yếu tố của đất, như các nấm hoại sinh Paecilomyces lilacinusPaecilomyces marquandii, đã cho thấy dưới điều kiện được kiểm soát với hoạt động chống hay giết ấu trùng chống lai giun chưa trưởng thành trong vỏ trứng giun. Tuynhiên, điểu thú vị trong nghiên cứu có thể thận trọng khi áp dụng các biện pháp phòng chống này khống chế trứng Toxocara trong môi trường đất có thể khó khăn gặp phải, do những điều mà chúng ta khó đoán được liên quan đến hành vi của loài trong điều kiện môi trường mới.

Các khía cạnh phân tử

Các giun tròn trong giống Toxocara có quan hệ họ hàng xa với các sinh vật sống tự do trong đất Caenorhabditis elegans. Sau đó nó là thành viên duy nhât của ngành giun tròn và toàn bộ bộ gen của giun tròn DNA đã giải trình tự xác định (giải thưởng Nobel về y học và sinh lý năm 2002). Nó chứa 19.099 gen. Bộ gen của T. canis có kích thước xấp xỉ loài giun đũa A. lumbricoides, lớn hơn gấp ba lần so với C. elegans (3 × 109 bp). T. canis có 18 nhiễm sắc thể, so với 24 nhiễm sắc thể đối với giun đũa Ascaris.
 

Điều tra về sinh học phân tử của Toxocara đã tập trung về các protein tiết của các giai đoạn giun non di chuyển. Các protein này đã chứng minh hữu ích trong việc chẩn đoán miễn dịch các thể bệnh VLM và OLM. Nghiên cứu sâu các protein giống nhau này trong việc hỗ trợ cho giun đối với khả năng lẩn tránh đáp ứng miễn dịch bảo vệ tiềm năng.

Ý tưởng này xuất phát từ thực tế giai đoạn giun non lang thang trong mô đến vài tháng hoặcvài năm mà không hề có sự can thiệp rõ ràng từ vật chủ. Có thể giun cuối cũng sẽ chết theo thời gian. Sự thật mà nhiều loại protein tiết từ giun còn non trong họ ít nhất 6 chất mucin có tính kháng nguyên liên quan đến bề mặt lớp làm mạnh thêm cho khái niệm này. Các mucin tiết là tạm thời bao phủ bề mặt giun và tung ra từng đợt trong vật chủ. Người ta nghĩ rằng hành vi tiết này như một phần có được mà ký sinh trùng có được làm xáo trộn hệ thống miễn dịch vật chủ, bỏ lại đằng sau đó một bệt đặc trơn ướt không giống như ốc.

Trong mô hình này, giun đi từng đợt và tiết ra kháng nguyên tiết để xác định vì thế tránh nguy hại. Nhiều vùng mã hóa mới khác đối với các protein trình diện của các ấu trùng còn lại cũng đã được ghi nhận, gồm có các vùng mã hóa 4 C-type lectin khác nhau, 5loại superoxide dismutase, phosphatidylethanolamine binding protein, prohibin, olfactomedin, aquaporin, 3 dị nguyên của nọc rắn/ ASP homologues và một asparaginyl endopeptidase. Các chức năng đối với sản phẩm gen này vẫn còn đang nghiên cứu.
 

Một nhóm protein khác đã được mô tả từ các giai đoạn khác nhau của T. canis và có thể giúp giải thích cơ chế do ký sinh trùng di chuyển khắp các mô vật chủ. Các gen cathepsin-z-like protease đã được dòng hóa và cDNAs của chúng đã được giải trình tự, xác định mộtvùng mã hóa cysteine protease rõ ràng trên cả ấu trùng trưởng thành và ấu trùng giai đoạn nhiễm. Các vaccine phân tử có thể hữu ích trong việc hỗ trợ chống lại nhiễm bệnh trên chó nuôi và mèo nuôi. Từ lâu nghiên cứu đã xác định myosin của Toxocara như một ứng cử viên tiềm năng. Một số đoạn hay mảnh myosin chứng minh có tính kháng nguyên cao khi sử dụng trong phối hợp xét nghiệm ELISA xác định kháng thể IgG dẫn đến xảy ra tự nhiên trong nhiễm trùng. Trong nghiên cứu đó, hơn 85% bệnh nhân được chẩn đoán trước đây với hội chứng VLM là dương tính. Tuy nhiên, đến hôm nay không có vaccine theo cơ chế phân tử nào sử dụng.

Các giun tròn giống Ascarid được biết rất rõ về khả năng của chúng sinh ra đáp ứng dị ứng mạnh và các điều tra tại la bô làm với Ascaris spp. thường không còn nghiên cứu một cách đơn lẻ vì lý do này. Các dị nguyên đã có đặc trưng từng phần từ Ascaris spp. và cấu thành một nhóm lipid-binding polypeptides xem như một phản ứng trùng hợp protein lớn được và đây là các dị nguyên polyprotein giun tròn.
 

Các phân tử dị nguyên polyprotein giun tròn thế hệ cha mẹ là tiết như một lượng lớn polymer và rồi thực hiện tiêu hóa, sinh ra một loạt polypeptides của Ca. 15 kDa. Mỗi phân tử nhỏ hơn này có cấu trúc liên quan đến một trong hai nhóm, A hoặc B. Đây là phần nhỏ subunits của các phân tử nguồn gốc mà sinh ra các đáp ứng dị ứng ở nhiều động vật có vú khác nhau. Một nhóm dị nguyên polyprotein được xác định từ T. canis, thiết kế TBA-1 và tương tự cấu trúc như đã được mô tả của Ascaris.

Một số điểm kết

Bệnh ấu trùng giun đũa chó mèo vẫn là một vấn đề trên thế giới, dẫn đến bệnh lý toàn thân trên các người trẻ. Các khu vực sinh sống trong môi trường đông đúc và chật hẹp không thể tránh khỏi bởi các chó, mèo trong môi trường lây truyền khéo kín sẵn có tại nhiều vùng. Các công viên công cộng và sân chơi trở thành vùng có nguy cơ nhiễm bệnh. Hiện tại, các chương trình phòng chống nhằm mục đích làm giảm số vật nuôi hoặc ít nhất là hạn chế sự tiếp xúc đến các vùng này đối với các trẻ em nhỏ đã trở thành biện pháp hiệu quả làm giảm số ca trên nhóm đối tượng này. Kiểm soát sự lan rộng của các phân chó và giảm phân tán phân mèo cũng giúp giảm đi tình trạng phơi nhiễm.
 

Điều trị thường xuyên với thuốc giun sán nhóm benzimidazoles đối vớ i các vật cưng sẽ làm giảm gánh nặng giun và giới hạn số trứng tồn lưu trong đất. Song, đối với hầu hết các nơi, giun tròn ký sinh ở timdường nhưở trong đất nhiều hơn. Những gì cần cho chương trình phòng chống trong tương lại là phát triển các biện pháp tiếp cận mới một cách triệt để, như các vaccine phân tử DNA hiệu quả nhằm bảo vệ lâu dài. Để nâng cao việc phát triển vaccine, các thử nghiệm chẩn đoán nhanh, nhạy, đặc hiệu và hiệu quả được ứng dụng với các peptides có tính kháng nguyên tái tổ hợp có thể thực hiện trên thực địa là các yếu tố cần thiết để thiết lập bất kỳ phương trình phòng chống nào trong tương lai. Cuối cùng, các liệu pháp điều trị liều duy nhất, hiệu quả hơn với tính an toàn cao hơn cho các bệnh nhi sẽ giúp rút ngắn thời gian bệnh, cung cấp liệu trình đầy đủ. Giết hết các trứng Toxocara trong vùng đất nhiễm được thực hiện bởi các nhà dịch tễ học là có thể nhưng nếu một chiến lược như thế tìm thấy là toan toàn thì nhiều vùng đất rộng lớn có tiềm năng nguy hiểm trong thành phố có thể thực hiện làm thế nào không còn mầm bệnh Toxocara.

Ngày 20/06/2013
TS. Nguyễn Văn Chương và Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích