Home TRANG CHỦ Thứ 7, ngày 23/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 9 5 1 1 8
Số người đang truy cập
3 6 3
 Chuyên đề Sinh học phân tử
Cần có globulin để gây miễn dịch thụ động phòng ngừa bệnh

Hiện nay các loại vắc-xin được nghiên cứu và sản xuất thành công đã góp phần rất đáng kể trong việc dự phòng những bệnh do vi sinh vật gây nên. Vắc-xin có khả năng gây miễn dịch chủ động do chúng được tạo thành từ kháng nguyên của các vi sinh vật hoặc độc tố của vi sinh vật khi sử dụng.

Bên cạnh đó nhằm phòng ngừa ngay tức thì một bệnh nào đó có liên quan do vi sinh vật gây nên, những cơ sở y tế cũng cần có các loại globulin để tạo miễn dịch thụ động và xử trí khi cần thiết.

Đặc điểm của globulin miễn dịch

Miễn dịch thụ động được tạo thành trong cơ thể con người để giúp phòng ngừa ngay một số bệnh do vi sinh vật gây nên nhờ tiêm globulin miễn dịch. Thời gian miễn dịch thụ động phụ thuộc vào liều lượng, tính bền vững của globulin và chỉ có khả năng tác dụng trong vòng từ một đến vài tuần. Thực tế có hai loại globulin miễn dịch được sử dụng là globulin miễn dịch thông thường và globulin miễn dịch đặc hiệu.

Loại globulin miễn dịch thông thường ở người là loại được chiết xuất từ máu hay huyết tương của người. Chúng có chứa kháng thể chống vi-rút, các vi-rút này có tỷ lệ lưu hành trong quần thể dân chúng bình thường.

Loại globulin miễn dịch đặc hiệu là những sản phẩm được sử dụng để giúp cho cơ thể chống lại các tác nhân gây bệnh riêng như vi-rút cự bào (Cytomegalovirus), bạch hầu, viêm gan B, dại, uốn ván, thủy đậu hoặc các bệnh Zoster. Chúng được chiết xuất từ máu của bệnh nhân bị các các loại bệnh này đã điều trị khỏi bệnh hoặc người đã được tiêm vắc-xin trong thời gian gần đây hay những người được phát hiện có hiệu giá kháng thể cao. Vì vậy loại globulin miễn dịch đặc hiệu có mức độ của hiệu giá kháng thể đặc hiệu cao. Mặc dù yếu tố tan máu Rh(D) không phải là tác nhân gây nhiễm vi sinh vật nhưng cần phải được kiểm soát một cách kỹ càng. Những phản ứng phụ khi sử dụng và cách bảo quản các loại globulin miễn dịch đặc hiệu cũng giống như loại globulin miễn dịch thông thường. Cần lưu ý các loại globulin miễn dịch đặc hiệu và những loại globulin miễn dịch khác phải được sàng lọc và xử lý một cách thận trọng để bảo đảm không bị lây nhiễm các loại vi-rút như vi-rút HIV, vi-rút viên gan B (HBV), vi-rút viêm gan C (HCV).

 
Globulin miễn dịch cần có tại các cơ sở y tế để sử dụng khi cần thiết (ảnh minh họa)

Globulin miễn dịch thông thường tiêm bắp thịt

Các loại globulin miễn dịch thông thường tiêm bắp thịt được bào chế từ huyết tương người. Chúng có chứa các kháng thể chống lại những bệnh nhiễm trùng thông thường. Các cơ sở sản xuất tại Úc đã bào chế globulin miễn dịch được pha loãng 16,5%; tại Anh được pha loãng 10%; tại Mỹ được pha loãng 16,5%. Các nhà bào chế đã thêm Thiomersal 0,01% vào để bảo quản globulin. Điều cần quan tâm là loại globulin miễn dịch thông thường cũng như các loại chế phẩm miễn dịch khác đều phải được sàng lọc và xử lý cẩn thận để không bị nhiễm những loại vi-rút như HIV, HBV và HCV.

Loại globulin miễn dịch thông thường có chứa 16% các phân tử immunoglobulin G (IgG) của huyết tương người bình thường cộng với Thiomersal 0,01% được sản xuất dưới dạng ống thuốc với liều lượng 2ml hoặc 5ml dùng để tiêm bắp thịt. Globulin này được chỉ định sử dụng cho người bị thiếu hụt miễn dịch, gây miễn dịch thụ động và dự phòng bệnh thủy đậu.

Chỉ định dùng cho người bị thiếu hụt miễn dịch được thực hiện trên những trường hợp bệnh nhân có bất thường trong việc sản xuất kháng thể như thiếu hụt gammaglobulin tiên phát, bệnh bạch cầu lympho mãn tính. Các đối tượng này thường được điều trị bằng globulin miễn dịch thông thường và dùng theo đường tiêm bắp thịt với liều lượng từ 0,6 đến 0,9 ml/kg trong lượng cơ thể; tiêm trong khoảng thời gian từ 2 đến 4 tuần.

Chỉ định gây miễn dịch thụ động được thực hiện khi có dịch sởi xảy ra hoặc có nguy cơ phơi nhiễm với bệnh thủy đậu. Globulin miễn dịch chống bệnh sởi và bệnh thủy đậu có thể được sử dụng để dự phòng các bệnh này đối với những người bị nhiễm HIV. Chúng cũng có thể được chỉ định tiêm dự phòng các bệnh nhiễm khuẩn đặc hiệu đối với những trường hợp người có hệ thống miễn dịch bình thường nhưng dễ bị cảm nhiễm với các bệnh này khi có nguy cơ bị phơi nhiễm bệnh.

Chỉ định dự phòng bệnh thủy đậu được thực hiện cho trẻ nhỏ dưới 1 tháng tuổi, trẻ em đang được điều trị bằng các thuốc làm suy giảm miễn dịch và phụ nữ có thai. Nếu các globulin Zoster không có sẵn, liều lượng sử dụng globulin miễn dịch thông thường có thể tăng lên. Liều globulin này không thường xuyên được sử dụng để phòng ngừa bệnh thủy đậu nhưng có tác dụng làm nhẹ triệu chứng bệnh. Thông thường sử dụng liều lượng từ 0,4 đến 1ml/kg trọng lượng cơ thể.

Globulin miễn dịch thông thường được tiêm bắp thịt sâu với loại kim tiêm cỡ lớn, không được tiêm tĩnh mạch. Trong trường hợp cần tiêm globulin liều cao vào tĩnh mạch thì phải sử dụng loại globulin được bào chế đặc biệt dùng tiêm tĩnh mạch. Tiêm phòng bệnh viêm gan A với liều lượng 0,03ml/kg trọng lượng cơ thể có thể dự phòng được 6 tuần; nếu tiêm phòng bệnh sởi sử dụng liều lượng 0,2ml/kg trọng lượng cơ thể. Thời gian tác dụng hiệu quả kéo dài của globulin miễn dịch có liên quan đến liều lượng; với liều lượng globulin miễn dịch thông thường có thể kéo dài thời gian tác dụng khoảng từ 3 đến 4 tuần. Thực tế không cần thử phản ứng da đối với globulin miễn dịch thông thường; nếu tiêm globulin trong da có thể gây nên phản ứng viêm tại chỗ dễ nhầm lẫn với phản ứng dị ứng vì globulin tiêm bắp thịt rất hiếm gặp các phản ứng phụ. Tuy vậy, tại chỗ tiêm thấy có hiện tượng cơ bị mềm hoặc cứng và triệu chứng này thường kéo dài vài giờ sau khi tiêm. Trong một số trường hợp có thể thấy xuất hiện phản ứng dị ứng toàn thân như nổi mề đay, phù niêm mạc; đôi khi nổi ban đỏ hoặc sốt nhẹ; các phản ứng quá mẫn rất hiếm khi xảy ra nhưng đối với những người có cơ địa quá mẫn thì có thể có nguy cơ gây sốc phản vệ nếu tiêm nhắc lại nhiều lần. Do đó nên chống chỉ định sử dụng globulin miễn dịch thông thường cho người đã dùng nhiều lần mặc dù phản ứng quá mẫn rất hiếm gặp, đồng thời cũng không được sử dụng đối với các trường hợp bị thiếu hụt IgA.

Globulin miễn dịch thông thường tiêm tĩnh mạch

Globulin miễn dịch thông thường dùng để tiêm tĩnh mạch là loại IgG được pha loãng ở nồng độ 6%, loại globulin này có chứa một lượng rất nhỏ IgM và IgA và thường được sản xuất dưới dạng lọ hay chai thuốc với liều lượng 50ml, 200ml và 500ml. Loại globulin miễn dịch thông thường tiêm tĩnh mạch thường được chỉ định sử dụng cho các bệnh nhân bị thiếu hụt miễn dịch cần điều trị với một lượng lớn globulin hàng tháng. Chúng được sản xuất từ một lượng huyết thanh có chứa IgG lớn hơn loại globulin miễn dịch thông thường tiêm bắp thịt. Trên thực tế, việc sử dụng globulin miễn dịch thông thường dùng để tiêm tĩnh mạch rất có lợi cho những bệnh nhân bị mắc bệnh Kawasaki, hội chứng Guillain Barre, viêm đa rễ thần kinh mạn tính và ở các bệnh nhân bị nhiễm vi khuẩn phối hợp với bệnh suy giảm miễn dịch thứ phát cũng như làm giảm nguy cơ bị mắc các bệnh mạch vành ở tim.

 
Globulin miễn dịch thông thường tiêm tinh mạch (ảnh minh họa)

Globulin miễn dịch thông thường tiêm tĩnh mạch được sử dụng điều trị cho người lớn với dung dịch globulin 6% pha 4 thể tích nước muối đẳng trương, truyền tĩnh mạch lúc đầu tốc độ 1ml/phút; sau 15 phút có thể tăng tốc độ truyền lên mức tối đa từ 3 đến 4ml/phút. Bệnh nhân cần phải được theo dõi sát trong quá trình truyền globulin miễn dịch thông thường vào đường tĩnh mạch. Theo quy định cứ sau mỗi 15 phút phải theo dõi mạch đập, huyết áp, nhịp thở một lần và đo nhiệt độ mỗi giờ một lần. Các chỉ số theo dõi này cần được ghi đầy đủ vào hồ sơ bệnh án trước và trong khi truyền globulin tĩnh mạch. Trường hợp bệnh nhân bị thiếu hụt miễn dịch, nên truyền liều lượng từ 0,4 đến 0,6ml/kg trọng lượng cơ thể cách nhau trong khoảng thời gian từ 3 đến 4 tuần. Đối với bệnh Kawasaki, nên truyền globulin một liều đơn 2ml/kg trọng lượng cơ thể; có thể truyền nhắc lại một lần nếu triệu chứng sốt không giảm trong vòng 48 giờ.

Các phản ứng phụ khi sử dụng globulin miễn dịch thông thường truyền tĩnh mạch được ghi nhận với những triệu chứng như run rẩy, đau ngực, đau lưng, sốt nhẹ. Triệu chứng đau đầu dữ dội theo các nhà khoa học có thể là do nguyên nhân viêm màng não vô khuẩn. Thực tế không gặp phản ứng sốc phản vệ trong các trường hợp sử dụng globulin miễn dịch thông thường loại tiêm tiêm truyền tĩnh mạch. Tuy vậy, những người bị thiếu hụt IgA có thể có nguy cơ bị phản ứng quá mẫn với globulin miễn dịch thông thường tiêm truyền tĩnh mạch.

Các loại globulin miễn dịch đặc hiệu

Hiện nay các nhà sản xuất đã bào chế được các loại globulin miễn dịch đặc hiệu sử dụng trong các trường hợp cần thiết để chống vi-rút cự bào CMV (Cytomegalovirus), bệnh viêm gan B, chống bệnh dại, tạo kháng thể Rh (D), chống uốn ván, chống các bệnh Zoster.

Globulin miễn dịch đặc hiệu chống vi-rút cự bào

Được bào chế từ huyết tương người có hiệu giá kháng thể kháng vi-rút cự bào ở mức độ cao 6% được pha loãng với maltose 10%, không có chất diệt khuẩn, thường đóng chai 30ml để tiêm tĩnh mạch. Loại globulin chống vi-rút cự bào được chỉ định sử dụng cho một số trường hợp người có nguy cơ bị nhiễm loại vi-rút này. Sản phẩn được bào chế có thể dễ bị bội nhiễm các loại vi khuẩn, do đó cần phải được dùng ngay sau khi mở chai. Vì vậy khi sử dụng bác sĩ cần dự tính trước về liệu trình, cách dùng và các tác dụng phụ.

Globulin miễn dịch đặc hiệu viêm gan B

Được bào chế từ huyết tương của người cho máu tại các ngân hàng máu. Những mẫu máu được lựa chọn phải là mẫu máu có chứa lượng kháng thể kháng viêm gan B cao. Do sản phẩm này hiếm nên loại globulin miễn dịch đặc hiệu viêm gan B ít được dùng. Tuy vậy nếu có điều kiện thì loại globulin miễn dịch đặc hiệu này được chỉ định sử dụng cho các trường hợp có nguy cơ cao như trẻ nhỏ sinh ra từ những bà mẹ có HBsAg dương tính, những nhân viên y tế bị phơi nhiễm vi-rút viêm gan B do bị tổn thương vì kim tiêm đâm phải khi chăm sóc người bệnh có vi-rút viêm gan B dương tính. Đối với trẻ được sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg dương tính, cần được dùng globulin miễn dịch đặc hiệu chống viêm gan B với liều lượng 100 đơn vị quốc tế IU trong ngày đầu tiên sau khi sinh để dự phòng ngay tức thì sự nhiễm bệnh. Loại vắc-xin viêm gan B cũng cần được tiêm cho trẻ ngay sau khi sinh. Điều cần lưu ý là không nên dùng globulin miễn dịch đặc hiệu viêm gan B cho trẻ nhỏ được sinh ra từ các bà mẹ có HBsAg âm tính. Đối với nhân viên y tế bị phơi nhiễm với máu và các dịch thể của người bệnh có HBsAg dương tính do kim tiêm đâm phải hoặc tiếp xúc qua vết thương tổn ở da, nếu bệnh nhân đã xác định rõ có HBgAg dương tính hoặc không rõ tình trạng dương tính thì các nhà khoa học khuyến cáo nên sử dụng globulin đặc hiệu viêm gan B với liều lượng 400 đơn vị quốc tế IU cho người lớn và dùng càng sớm càng tốt trong vòng 72 giờ sau khi bị kiêm tiêm đâm phải hoặc có tiếp xúc dịch thể qua da bị thương tổn; chú ý loại trừ những trường hợp nhân viên y tế biết rõ đã được tiêm phòng vắc-xin viêm gan B hoặc có HBsAg dương tính. Thực tế có thể tiêm globulin miễn dịch đặc hiệu viêm gan B cùng với vắc-xin viêm gan B nếu chưa được tiêm loại vắc-xin này hoặc tiêm nhắc lại nếu đã tiêm vắc-xin viêm gan B trước đó được 5 năm.

Globulin miễn dịch đặc hiệu chống bệnh dại

Được bào chế từ huyết tương người có hiệu giá miễn dịch chống bệnh dại cao, thường sử dụng để phòng ngừa cho những người bị các súc vật như chó, mèo, dơi... cắn hoặc cào khi đang lên cơ dại. Thông thường để dự phòng bệnh dại phải tiêm vắc-xin dại. Tuy vậy, trên thực tế có thể tiêm globulin miễn dịch đặc hiệu chống bệnh dại đồng thời với tiêm vắc-xin dại trong những trường hợp bị vết cắn hay vết cào của sức vật ở mức độ sâu, gần hệ thần kinh trung ương. Liều lượng quy định sử dụng cho tất cả các nhóm tuổi là 20 đơn vị quốc tế IU/kg trọng lượng cơ thể. Có thể tiêm chung quanh vết cắn, vết cào một nửa và nửa còn lại tiêm bắp thịt bình thường. Lưu ý chỉ nên tiêm globulin miễn dịch đặc hiệu chống bệnh dại một lần, không tiêm tiếp lần thứ hai vì không có tác dụng. Phản ứng phụ sau khi tiêm globulin có thể xảy ra là đau tại chỗ, sốt nhẹ. Mặc dù các nhà khoa học ghi nhận có ít phản ứng phụ và không phải hoàn toàn do dùng globulin miễn dịch chống bệnh dại nhưng triệu chứng phù quanh mao mạch thần kinh, hội chứng thận, sốc phản vệ đã được thông báo ở một số trường hợp sau khi tiêm huyết thanh kháng dại.

 
Tiêm globulin dại và vắc-xin dại khi chó dại cắn sâu, gần thần kinh trung ương (ảnh minh họa) 

Globulin miễn dịch đặc hiệu Rh(D)

Được chiết xuất từ người có loại kháng nguyên D của yếu tố Rhesus (Rh) dương tính. Rh(D) là loại kháng thể dùng phòng ngừa cho các bà mẹ có yếu tố Rh (Rhesus) âm tính nhưng mang thai có Rh dương tính. Globulin có hiệu giá kháng thể cao thường được sử dụng cho những người mẹ có yếu tố Rh âm tính trong vòng 72 giờ khi sinh. Chúng có chứa 16% các phân tử gammaglobulin từ kháng nguyên D của người mang yếu tố Rh dương tính với 125µg/ml, tương đương 625 đơn vị quốc tế IU/ml cộng với Thiomersal 0,01% để bảo quản và được sản xuất dưới dạng ống 1ml. Liều lượng globulin miễn dịch đặc hiệu Rh(D) được khuyến cáo sử dụng là 625 đơn vị quốc tế IU, tiêm bắp thịt và tiêm càng sớm càng tốt khi xác định được yếu tố Rh của đứa trẻ; tốt nhất là không nên tiêm chậm quá 72 giờ khi sinh. Thực tế tại nước ta, rất hiếm gặp các trường hợp bất đồng nhóm máu Rh giữa mẹ và con nên thường không có chỉ định tiêm loại globulin miễn dịch đặc hiệu này.

Globulin miễn dịch đặc hiệu chống uốn ván

Được bào chế từ huyết tương của người được chọn phù hợp và cô đặc kháng thể kháng uốn ván, sản xuất dưới dạng dung dịch pha loãng 16%. Globulin này dùng để phòng ngừa cho những người bị vết thương chưa được miễn dịch và có nguy cơ cao mắc uốn ván. Liều lượng globulin miễn dịch đặc hiệu uốn ván được khuyến cáo sử dụng là 250 đơn vị quốc tế IU, tiêm càng sớm càng tốt sau khi bị thương. Nếu chậm quá 24 giờ thì cần phải tăng liều lượng lên 500 đơn vị quốc tế IU. Giải độc tố uốn ván hay vắc-xin uốn ván được chỉ định tiêm cùng một lúc với tiêm globulin miễn dịch đặc hiệu uốn ván nhưng tiêm vào tay khác. Ngoài ra, globulin miễn dịch đặc hiệu chống uốn ván được bào chế từ huyết tương người dùng để tiêm tĩnh mạch cũng được sử dụng để điều trị uốn ván. Liều lượng dùng tùy theo mức độ nặng nhẹ của bệnh lý trên lâm sàng, có thể sử dụng liều lượng từ 4.000 đến 20.000 đơn vị quốc tế IU tiêm bắp thịt hoặc truyền tĩnh mạch chậm. Thường ống globulin miễn dịch đặc hiệu chống uốn ván tiêm tĩnh mạch có nồng độ pha loãng 6% chứa 4.000 đơn vị quốc tế IU.

Glogulin miễn dịch đặc hiệu chống các bệnh Zoster

Thường được chỉ định sử dụng cho các trường hợp bị bệnh thủy đậu. Chúng được bào chế với nồng độ 16% các phân tử gammaglobulin miễn dịch của người có hiệu giá kháng thể bệnh Zoster cao. Ngoài ra globulin này cũng còn được dùng cho các trường hợp: người bị các bệnh thiếu hụt miễn dịch tế bào như bệnh Hodgkin; người bệnh phải chịu liệu trình điều trị suy giảm miễn dịch; phụ nữ mang thai có nguy cơ bị bệnh thủy đậu và Zoster nhưng phải thử kháng thể kháng thủy đậu trước; trẻ được sinh ra từ các bà mẹ có nguy cơ bị bệnh thủy đậu bằng cách xét nghiệm phát hiện kháng thể của bà mẹ; trẻ sinh non dưới 28 tuần mang thai hoặc có trọng lượng nhỏ hơn 1.000g ở các bà mẹ có tiền sử bị bệnh thủy đậu. Điều cần lưu ý là nguy cơ rõ rệt và nguy cơ cao ở đây được hiểu là có sự tiếp xúc trong phạm vi gia đình người bệnh kéo dài hơn 1 giờ hoặc tiếp xúc trong lớp học đối với người bị bệnh thủy đậu.

 

Phụ nữ mang thai có nguy cơ bị bệnh thủy đậu và Zoster phải được tiêm globulin đặc hiệu

(ảnh minh họa)


Một vấn đề cũng cần quan tâm là nên chỉ định tiêm globulin miễn dịch đặc hiệu Zoster cho trẻ nhỏ được sinh ra từ các bà mẹ bị mắc bệnh thủy đậu trong thời gian 7 ngày hoặc ít ngày trước và sau khi sinh vì nếu không tiêm phòng thì tỷ lệ tử vong của trẻ có thể chiếm đến 30%. Nên tiêm globulin càng sớm càng tốt trong giai đoạn ủ bệnh, tốt nhất là trong vòng 96 giờ sau khi bị phơi nhiễm. Loại globulin miễn dịch đặc hiệu này có hiệu quả phòng bệnh cao nhưng chỉ có tác dụng trong thời gian rất ngắn. Liều lượng globulin miễn dịch đặc hiệu Zoster được sử dụng tiêm là 6ml đối với người lớn, 4ml đối với trẻ em từ 6 đến 12 tuổi và 2ml đối với trẻ em từ 0 đến 5 tuổi. Liều lượng sử dụng này có thể được thực hiện lặp lại khi bị phơi nhiễm lần thứ hai. Trên thực tế có thể tiêm loại globulin miễn dịch thông thường nếu như cơ sở y tế không có sẵn loại globulin miễn dịch đặc hiệu Zoster.

Khuyến nghị

Sự ra đời của các loại vắc-xin đã góp phần rất lớn giúp cho con người tạo ra được tính miễn dịch chủ động trong việc phòng ngừa những bệnh lây nhiễm vi sinh vật bằng kháng nguyên của vi sinh vật hay độc tố của chúng hiện hiện trong vắc-xin sản xuất khi được sử dụng. Đặc biệt các loại vắc-xin áp dụng trong chương trình tiêm chủng mở rộng đã bảo vệ có hiệu quả cho trẻ em khỏi nguy cơ bị mắc những bệnh lây nhiễm vi sinh vật nguy hiểm trong những năm đầu đời. Tuy vậy đối với một số trường hợp cần thiết, con người cần được bổ sung thêm tính miễn dịch thụ động được tạo ra từ các loại globulin miễn dịch thông thường hay globulin miễn dịch đặc hiệu để phòng ngừa ngay tức thì một loại bệnh nào đó có liên quan mặc dù chúng chỉ có thể có tác dụng trong thời gian ngắn một tuần hoặc vài tuần. Các cơ sở y tế, nhất là cơ sở điều trị nên có sẵn các loại globulin miễn dịch thông thường và globulin miễn dịch đặc hiệu nhằm sử dụng hỗ trợ trong việc phòng ngừa một số bệnh lây nhiễm do vi sinh vật có hiệu quả cho người dân khi cần thiết.

Ngày 24/11/2014
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích