Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 19/04/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Finance & Retail Chuyên đề
Dịch tễ học
Côn trùng học
Nghiên cứu lâm sàng & điều trị
Ký sinh trùng sốt rét
Ký sinh trùng
Sinh học phân tử
Sán lá gan
Sốt xuất huyết
Bệnh do véc tơ truyền
Vi khuẩn & Vi rút
Sán
Giun
Nấm-Đơn bào
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 2 4 6 3 9 0 9
Số người đang truy cập
3 7 6
 Chuyên đề Dịch tễ học
Ảnh minh họa.
Đấu tư vào phòng chống và loại trừ sốt rét hiện nay trên toàn cầu

Trong năm 2017, ước tính có 3,1 tỷ USD đã được đầu tư vào các nỗ lực PC & LTSR do chính phủ các nước có lưu hành sốt rét (SRLH) và các đối tác quốc tế một số tiền cao hơn con số được báo cáo trong năm 2016. Gần ba phần tư (2,2 tỷ USD) đầu tư vào năm 2017 được dành cho khu vực châu Phi, tiếp theo là khu vực Đông Nam Á (300 triệu USD), châu Mỹ (200 triệu USD) và Đông Địa Trung Hải và Tây Thái Bình Dương (mỗi khu vực 100 triệu USD).

Trong năm 2017, khoảng 1,4 tỷ USD đã được đầu tư vào các quốc gia có thu nhập thấp, 1,2 tỷ USD ở các nước có thu nhập trung bình thấp và 300 triệu USD ở các nước có thu nhập trung bình cao. Kinh phí từ các tổ chức quốc tế là nguồn tài trợ chính ở các nước thu nhập thấp và trung bình thấp, lần lượt là 87% và 70%. Chính phủ các nước có SRLH đã đóng góp 28% tổng nguồn kinh phí (900 triệu USD) vào năm 2017, một con số không thay đổi so với năm 2016. Khoảng 2/3 trong số các nguồn kinh phí có nguồn gốc trong nước được đầu tư vào các hoạt động PCSR thực hiện bởi các chương trình PCSR quốc gia, với phần còn lại chia sẻ chi phí ước tính như là chi phí dành cho chăm sóc BNSR.

Cũng như những năm trước, Mỹ đóng góp nguồn kinh phí quốc tế lớn nhất dành cho SR với 1,2 tỷ USD (39%) trong năm 2017. Các nước thành viên của Ủy ban Hỗ trợ phát triển cộng lại chiếm 700 triệu USD (21%). Anh đóng góp khoảng 300 triệu USD (9%) trong khi Quỹ Bill & Melinda Gates cung cấp 100 triệu USD (2%). Trong số 3,1 tỷ USD đầu tư vào năm 2017, có đến 1,3 tỷ USD đã được điều chuyển thông qua Quỹ Toàn cầu phòng chống AIDS, Lao và sốt rét.


Hình 1

Triển vọng đầu tư vào Phòng chống và Loại trừ sốt rét

Mặc dù kinh phí dành cho bệnh SR vẫn tương đối ổn định kể từ năm 2010 nhưng mức đầu tư vào năm 2017 còn xa so với những gì cần thiết để đạt được 2 mốc quan trọng đầu tiên, đó là mức giảm ít nhất 40% số ca mắc SR và tỷ lệ TVSR trên toàn cầu vào năm 2020 so với năm 2015.

Để đạt được các mục tiêu vào năm 2030, ước tính kinh phí dành cho SR hàng năm cần tăng lên ít nhất là 6,6 tỷ USD mỗi năm vào năm 2020. Tăng cường đầu tư vào phát triển và nghiên cứu bệnh SR là chìa khóa để đạt được các mục tiêu. Trong năm 2016, 588 triệu USD đã được dành cho lĩnh vực này, chiếm 85% nhu cầu hàng năm ước tính cho nghiên cứu và phát triển. Mặc dù kinh phí nghiên cứu và phát triển cho các loại vaccine và thuốc SR giảm trong năm 2016 so với năm 2015 nhưng đầu tư vào các sản phẩm phòng chống vector gần như tăng gấp đôi từ 33 triệu USD lên 61 triệu USD.

Cung cấp vật tư cho phòng chống sốt rét

Màn tẩm hóa chất diệt

Từ năm 2015-2017, tổng cộng có 624 triệu màn tẩm hóa chất diệt muỗi (insecticide-treated mosquito nets-ITNs), chủ yếu là màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu (long-lasting insecticidal nets - LLINs), đã được báo cáo bởi các nhà sản xuất như đã được phân phối trên toàn cầu. Điều này thể hiện sự gia tăng đáng kể so với giai đoạn 2012-2014 trước đó chỉ có 465 triệu màn ITNs được phân phối trên toàn cầu. Ước tính khoảng 552 triệu ITNs được phân phối bởi các chương trình PCSR quốc gia trên toàn cầu và phần lớn (459 triệu hay 83%) được phân phối ở vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi trong giai đoạn (2015-2017).

Trên toàn cầu, 85% số màn ITNs được phân phối thông qua các chiến dịch phân phối miễn phí đại trà, 8% trong các đợt triển khai khám chữa bệnh tại cơ sở chăm sóc tiền sản và 4% trong các chương trình tiêm chủng mở rộng.


Hình 2

Test chẩn đoán nhanh

Ước tính có 276 triệu test chẩn đoán nhanh (rapid diagnostic tests-RDTs) đã được bán trên toàn cầu vào năm 2017. Trong năm 2017, có 245 triệu RDTs được phân phối bởi Chương trình PCSR quốc gia. Hầu hết các RDTs (66%)được xét nghiệm chỉ để phát hiện loài P. falciparum và được cung cấp cho vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi.

Tại vùng cận sa mạc Sahara, châu Phi, các RDTs ngày càng được sử dụng nhiều nhất trong chẩn đoán SR ở những bệnh nhân nghi ngờ SR tại các cơ sở y tế công. Trong năm 2017, ước tính có 75% các xét nghiệm SR được thực hiện bằng cách sử dụng RDTs, tăng từ 40% trong năm 2010.


Hình 3

Thuốc phối hợp có thành phần artemisinins

Ước tính có khoảng 2,74 tỷ liều thuốc phối hợp có gốc artemisinin (Artemisinin-based Combination Therapies-ACTs) được các quốc gia mua trong giai đoạn (2010-2017). Ước tính khoảng 62% số lượng mua này được báo cáo dành cho cho khu vực công. Giai đoạn (2010-2017), khoảng 1,45 tỷ liều thuốc điều trị ACTs được cung cấp, trong đó 1,42 tỷ (98%) thuộc khu vực châu Phi.

Với việc tăng cường xét nghiệm chẩn đoán trong những năm gần đây, liệu trình điều trị ACTs đang ngày càng hướng đến những BNSR có kết quả xét nghiệm dương tính. Điều này được chứng minh bằng tỷ lệ thuốc ACTs so với xét nghiệm giảm đáng kể (0,8 trong năm 2017 so với 2,5 trong năm 2010). Tuy nhiên, điều này ngụ ý rằng ước tính có khoảng 30% bệnh nhân nhận được liều thuốc ACTs mà không được xét nghiệm sốt rét.

Kiểm soát vector sốt rét

Một nửa số người có nguy cơ bị SR ở châu Phi đang ngủ dưới một màn ITNs: Năm 2017, 50% dân số được bảo vệ bởi can thiệp này, tăng từ 29% năm 2010. Hơn nữa, tỷ lệ người dân tiếp cận với màn ITNs gia tăng từ 33% trong năm 2010 lên 56% trong năm 2017. Tuy nhiên, độ bao phủ màn trên dân đã được cải thiện nhẹ kể từ năm 2015 và đã chững lại kể từ năm 2016.


Hình 4

Các hộ gia đình có ít nhất 1 màn ITN cho mỗi 2 người tăng gấp đôi lên tới 40% trong giai đoạn 2010-2017. Tuy nhiên, con số này chỉ thể hiện mức tăng khiêm tốn trong 3 năm qua và vẫn còn xa so với mục tiêu bao phủ toàn cầu. Ngày càng ít người có nguy cơ bị SR được bảo vệ bằng cách phun hóa chất tồn lưu trong nhà (indoor residual spraying -IRS), một biện pháp phòng chống vector có liên quan đến việc phun tồn lưu IRS lên các bức tường trong nhà. Trên toàn cầu, bảo vệ bằng IRS giảm từ mức cao nhất 5% trong năm 2010 xuống còn 3% trong năm 2017.

Trong khu vực châu Phi, độ bao phủ IRS đã giảm từ 80 triệu người có nguy cơ trong năm 2010 xuống đến một mức thấp với 51 triệu người vào năm 2016 trước khi tăng lên 64 triệu người vào năm 2017. Trong các khu vực khác, số người được bảo vệ bằng IRS vào năm 2017 là 1,5 triệu người ở châu Mỹ, 7,5 triệu người ở Đông Địa Trung Hải, 41 triệu người ở Đông Nam Á và 1,5 triệu người ở Tây Thái Bình Dương.

Sự sụt giảm độ bao phủ IRS đang diễn ra khi các nước thay đổi hoặc xoay vòng từng loại hóa chất (thay đổi tới các hóa chất đắt tiền hơn) và khi chiến lược triển khai thay đổi như giảm quần thể có nguy cơ ở các nước loại trừ sốt rét.


Hình 5

Liệu pháp điều trị dự phòng: Áp dụng các quốc gia châu Phi

Để bảo vệ phụ nữ trong các khu vực có sự lan truyền SR vừa và cao ở châu Phi, TCYTTG khuyến cáo điều trị dự phòng cách quãng trong thai kỳ (intermittent preventive treatment in pregnancy-IPTp) với một số thuốc sốt rét nhưsulfadoxine-pyrimethamine. Trong số 33 quốc gia châu Phi báo cáo về mức độ bao phủIPTp vào năm 2017, ước tính có khoảng 22% phụ nữ mang thai đủ điều kiện nhận được khuyến nghị từ 3 liều IPTp hoặc nhiều hơn, so với 17% vào năm 2015 và 0% vào năm 2010.

Năm 2017, có 15,7 triệu trẻ em ở 12 quốc gia thuộc tiểu vùng Sahel của châu Phi được bảo vệ thông qua các chương trình hóa trị liệu phòng ngừa sốt rét theo mùa (seasonal malaria chemoprevention-SMC). Tuy nhiên, khoảng 13,6 triệu trẻ em có thể được hưởng lợi từ sự can thiệp này không nhận được thuốc, chủ yếu là do thiếu kinh phí.

4. Xét nghiệm chẩn đoán và thuốc điều trị

Tiếp cận chăm sóc tại các cơ sở y tế

Chẩn đoán và điều trị kịp thời là cách hiệu quả nhất để ngăn ngừa bệnh SR nhẹ phát triển thành bệnh nặng và tử vong. Dựa trên các cuộc điều tra hộ gia đình ở cấp quốc gia hoàn thành tại19 nước thuộc vùng cận Sahara, châu Phi trong giai đoạn (2015-2017), có 52% trẻ em bị sốt được đưa đến một cơ sở y tế chăm sóc sức khỏe. Điều này bao gồm các bệnh viện và phòng khám của khu vực công, các cơ sở y tế khu vực tư nhân chính thức và các nhân viên y tế cộng đồng.


Hình 6

Mặc dù nhiều trẻ em sốt được đưa đến chăm sóc trong lĩnh vực sức khỏe công (36%) so với khu vực tư nhân y tế chính thức chỉ 8%, vẫn có một tỷ lệ cao trẻ em bị sốt không nhận được bất kỳ sự chăm sóc y tế nào (40%). Việc tiếp cận kém với các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc thiếu nhận thức về các triệu chứng SR ở những cơ sở chăm sóc y tế là một trong những yếu tố góp phần.

Các cuộc điều tra trên quy mô quốc gia cho thấy sự bất tương xứng trong việc tiếp cận tới chăm sóc y tế dựa vào thu nhập hộ gia đình và địa phương, tỷ lệ trẻ bị sốt đưa tới các cơ sở chăm sóc y tế cao hơn ở các hộ gia đình giàu có hơn (72%) so với các hộ gia đình nghèo hơn (58%) và cao hơn các hộ gia đình sống trong các khu vực thành thị (69%) so với các khu vực nông thôn (60%).

Phát hiện, chẩn đoán sốt rét

Qua 58 cuộc khảo sát được thực hiện tại 30 quốc gia vùng cận Sahara, châu Phi trong giai đoạn (2010-2017), tỷ lệ trẻ em có sốt nhận được một xét nghiệm SR tại khu vực y tế công đang gia tăng, đạt một mức là 59% trong giai đoạn (2010-2017), tăng từ mức 33% cho giai đoạn (2010-2012).

Số liệu thu thập từ 56 cuộc khảo sát tiến hành ở vùng cận Sahara, châu Phi cho thấy tỷ lệ trẻ em khi sốt vào các cơ sở y tế công nhận được một xét nghiệm chẩn đoán bệnh SR trước khi điều trị thuốc SR đã tăng từ một mức là 35% trong giai đoạn (2010-2012) lên đến 74% trong giai đoạn (2015-2017). Mức tăng tương tự đã được ghi nhận trong lĩnh vực y tế tư nhân chính thức là 41% trong giai đoạn (2010-2012) lên 63% trong giai đoạn (2015-2017).


Hình 7

Điều trị bệnh nhân sốt rét

Dựa trên khảo sát hộ gia đình được tiến hành ở vùng cận Sahara, châu Phi từ 2015-2017, tỷ lệ trẻ em dưới 5 bị sốt nhận được bất kỳ loại thuốc SR nào là 29%. Trẻ em có nhiều khả năng được cho thuốc ACTs hiệu quả nhất nếu chăm sóc y tế được tìm kiếm trong khu vực y tế công so với khu vực tư nhân. Dữ liệu từ các cuộc điều tra tại 18 quốc gia đã tiến hành khảo sát ở vùng cận Sahara, châu Phi cho thấy trong giai đoạn (2015-2017), ước tính khoảng 88% trẻ em sốt mang đến để điều trị bệnh SR trong lĩnh vực y tế công nhận được thuốc ACTs, so với 74% trong khu vực y tế tư nhân chính thức.

Để thu hẹp khoảng cách giữa các trẻ em, TCYTTG khuyến cáo thực hiện xử lý lồng ghép ca bệnh dựa vào cộng đồng (integrated community case management -iCCM). Cách tiếp cận này thúc đẩy việc xử lý lồng ghép các tình trạng bệnh lý phổ biến đe dọa mạng sống ở trẻ em như SR, viêm phổi và tiêu chảy tại cơ sở y tế và các cấp cộng đồng. Năm 2017, trong 21 quốc gia châu Phi có gánh nặng SR cao, có tới 20 quốc gia đã có chính sách iCCM, trong đó có 12 quốc gia đã bắt đầu thực hiện các chính sách đó.



Hình 8

Hệ thống giám sát sốt rét

Giám sát hiệu quả các trường hợp SR và TVSR là điều cần thiết để xác định các khu vực hoặc nhóm dân bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi bệnh SR và huy động các nguồn lực để mang lại tác động tối đa. Một hệ thống giám sát mạnh đòi hỏi mức độ tiếp cận cao tới chăm sóc và phát hiện ca bệnh và báo cáo đầy đủ thông tin y tế bởi tất cả lĩnh vực, dù là công hay tư nhân.

Năm 2017, trong số 52 nước có gánh nặng bệnh từ trung bình đến cao, báo cáo cho biết tỷ lệ mắc bệnh SR là 60% hoặc cao hơn. Trong khu vực châu Phi có đến 36 trong 46 quốc gia chỉ ra rằng có ít nhất 80% cơ sở y tế công đã báo cáo dữ liệu về bệnh SR thông qua hệ thống thông tin sức khỏe quốc gia của họ.



Hình 9

Loại trừ sốt rét

Trên toàn cầu, mạng lưới loại trừ đang mở rộng với nhiều nước đang hướng tới zero ca bệnh bản địa: Năm 2017, có 46 quốc gia báo cáo có ít hơn 10.000 ca, tăng so với 44 quốc gia vào năm 2016 và 37 quốc gia trong năm 2010. Số lượng các nước có ít hơn 100 ca nội địa - một chỉ dấu mạnh mẽ cho thấy rằng việc loại trừ sốt rét đang nằm trong tầm tay, tăng từ 15 quốc gia trong năm 2010 lên 24 quốc gia trong năm 2016 và 26 quốc gia vào năm 2017.

Paraguay được TCYTTG chứng nhận là quốc gia không còn SR vào năm 2018, trong khi Algeria, Argentina và Uzbekistan đã đưa ra yêu cầu chính thức việc chứng nhận loại trừ bệnh sốt rét. Năm 2017, Trung Quốc và El Salvador đã báo cáo không có ca SR nội địa nào. Một trong những mốc quan trọng của mục tiêu toàn cầu vào năm 2020 là loại trừ bệnh SR ít nhất ở 10 quốc gia có SRLH trong năm 2015.


Hình 10

Năm 2016, TCYTTG đã xác định 21 quốc gia có khả năng LTSR vào năm 2020. TCYTTG đang hợp tác với chính phủ ở các nước này, được gọi là "các quốc gia E-2020" để hỗ trợ mục tiêu tăng tốc loại trừ của họ. Mặc dù 11 quốc gia E-2020 vẫn đang đi đúng hướng để đạt được mục tiêu LTSR nhưng có tới 10 quốc gia báo cáo có sự gia tăng BNSR nội địa trong năm 2017 so với năm 2016.

 

 

Ngày 21/03/2019
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích