Từ thời đại nguyên thuỷ cho đến nay, các thế hệ phụ nữ từ đời này qua đời khác nối tiếp nhau đã sống trên giải đất Việt Nam. Có mối dây liên hệ nào giữa những người phụ nữ đó? Người phụ nữ hiện đại gắn bó ra sao với những thế hệ phụ nữ đã sống trước họ? Và ý nghĩa của sự gắn bó đó là gì?
Sự tìm hiểu bước đầu về vai trò và phẩm chất tinh thần của người phụ nữ ở Việt Nam qua các thời đại cho thấy rằng đã có một truyền thống chung, xuyên suốt nghìn vạn năm sinh tồn và tiến hoá của người phụ nữ trên giải đất này. Người phụ nữ Việt Nam hiện đại là những người kế thừa và đang phát huy truyền thống đó. Những điều mà họ đang tự hào cũng là những điều mà thế giới đang quan tâm, chính là những điều gắn bó với cái truyền thống mà họ đã từng được tôi luyện và bây giờ đang được khai thác.
Ở nhiều nơi trên thế giới ngày nay, những phụ nữ hiện đại, thường ở vào một trong hai trạng thái tương phản: hoặc là đoạn tuyệt với những dấu vết quá khứ, trở thành những phụ nữ “tân tiến”, như ở một số nước công nghiệp phát triển, hoặc là vẫn giữ nhiều dáng vẻ của những thế kỷ đã qua (hay chỉ mới biến đổi chút ít) và mang tiếng là những phụ nữ “chậm tiến” như ở một số nước đang phát triển.
 (Ảnh sưu tầm) |
Phụ nữ Việt Nam hiện đại không ở vào cả hai trạng thái đó. Những người phụ nữ có vóc dáng nhỏ nhắn, thường là mảnh dẻ, vẻ bề ngoài giản dị ấy, dường như dễ gợi cho người nước ngoài nghĩ đến những cây lau - thứ cây cỏ bình thường có rất nhiều ở xứ nhiệt đới này từ rất lâu đời: “Các chị giống như cây lau mềm mại…” – đó là nhận xét của Tổng thư ký Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế trong chuyến đi nghiên cứu phong trào phụ nữ Việt Nam năm 1968. Nhưng tiếp ngay ý thứ hai, người phụ trách phong trào phụ nữ dân chủ thế giới đã bổ sung thêm vào cách nhìn đó và đánh giá đầy đủ về người phụ nữ Việt Nam hiện đại: “Nhưng cây lau đó là bằng thép!”. “Cây lau bằng thép” – cái hình tượng vừa cổ kính vừa hiện đại này đã phản ánh trạng thái độc đáo của người phụ nữ Việt Nam ngày nay, mang nặng và gắn bó với truyền thống, quá khứ, nhưng không ngừng ở lại đấy mà đang tích cực phát huy nó.
“Cây lau bằng thép” – cái hình tượng về những con người vừa mềm mại vừa cứng rắn này, còn có thể xem như một cách phản ánh tính cách chung của người phụ nữ Việt Nam, một tính cách đa dạng và phong phú nhưng đã ổn định từ trong lịch sử hàng nghìn năm.
Tìm hiểu, hình dung cho được những nét chung và cơ bản của một tính cách như thế là một vấn đề hệ trọng. Nó cho phép đánh giá và nhận thức về bản chất, về những vấn đề mấu chốt của phụ nữ Việt Nam, để tìm ra những nét bao quát về tính cách phụ nữ Việt Nam.
 |
(Ảnh sưu tầm) |
Có thể hình dung ra ba con người khác nhau, nhưng thống nhất, tập trung ở phụ nữ Việt Nam, tương ứng với ba vai trò truyền thống của họ trong lao động sản xuất, trong đấu tranh xã hội và trong xây dựng gia đình. Nhìn vào họ, chúng ta sẽ thấy hiện ra ba con người rõ nét nhất: Người lao động, Người nội trợ và Người chiến sĩ. Những hình ảnh khác - Người nghệ sĩ, Nhà chính trị… mờ nhạt hơn, hoặc đồng nhất hoá vào đấy, hoặc tách riêng ra. Đó là những hình ảnh của phụ nữ Việt Nam xưa cũng như nay.
Con người lao động
Trong người phụ nữ Việt Nam có những phẩm chất đặc sắc nhất định, kết tinh từ vai trò của họ trong tiến trình lịch sử Việt Nam. Làm nên những thuộc tính ấy, có vai trò quan trọng hàng đầu của những người phụ nữ nông dân trong hàng nghìn năm của thời đại dựng nước và giữ nước. Đấy là những người đã kế thừa những truyền thống tốt đẹp đầu tiên do những người lao động nữ từ thời nguyên thuỷ gây dựng, phát huy và truyền tới những người nữ nông dân trong thời cận đại và hiện đại - những người đang cùng với những nữ công nhân, viên chức và phụ nữ lao động trí óc, họp thành đội ngũ những người lao động ngày nay.
Đấy là những người, từ hàng nghìn năm xưa và cho mãi đến bây giờ, vẫn gắn bó với một nền kinh tế nông nghiệp nhiệt đới, mà hoạt động quan trọng nhất là nghề trồng lúa nước. Chỉ cho đến gần đây, vấn đề công nghiệp hoá mới được đặt ra ở Việt Nam, nhưng nhịp độ và đặc tính của nó cũng vẫn phản ánh vị trí và quy mô của nền sản xuất nông nghiệp, trong hệ thống kinh tế chung.
 phụ nữ Việt Nam là người rất giỏi chịu đựng khó khăn, gian khổ và hết sức cần cù, tỷ mỉ (Ảnh sưu tầm) |
Nói đến người lao động nữ Việt Nam chủ yếu là nói đến những phụ nữ nông dân ấy. Không phải ngẫu nhiên mà ở tất cả các trường hợp cần biểu hiện người phụ nữ Việt Nam một cách cô đúc, điển hình nhất, việc lựa chọn hình tượng người nữ nông dân lại chiếm một tỉ số cao ở Việt Nam. Cho nên trước khi tính toán đến sự cải tiến, biến đổi cốt cách của con người lao động trong người phụ nữ Việt Nam từ ít lâu nay trở đi, cần trước tiên xem xét một số thuộc tính đặc sắc đã hình thành và ổn định, trên cơ sở những phong thái làm ăn của phụ nữ nông dân, trong người phụ nữ lao động Việt Nam.
Việc trồng lúa nước ở Việt Nam trong điều kiện thiên nhiên và kỹ thuật từ trước đến nay, vẫn là một thứ lao động phức tạp và vất vả. Chân lấm tay bùn, giãi nắng dầm mưa, đời này qua đời khác, phụ nữ Việt Nam là người rất giỏi chịu đựng khó khăn, gian khổ và hết sức cần cù, tỷ mỉ. Sống chết với quê hương làng xóm, bám chặt lấy ruộng vườn, nghề nghiệp, người phụ nữ lao động Việt Nam còn là những người làm việc rất bền bỉ, dẻo dai, có tinh thần kiên trì, nhẫn nại rất cao. Bị thống trị và bóc lột nặng nề, lại gặp hoàn cảnh chiến tranh và thiên nhiên phá phách, trong cuộc sống cơ hàn dai dẳng, người phụ nữ lao động Việt Nam là những người rất căn cơ, tằn tiện, tính toán cẩn thận, chi ly.
Đấy là những người lao động đảm đang. Và chúng ta hiểu tinh thần đảm đang ở đây có nội dung thiên về mặt ráo riết đối phó với những khó khăn, gắng sức khai thác, vẫy vùng trong một điều kiện hạn hẹp để tạo ra những của cải vật chất và tinh thần, để vươn lên. Ở đây, không có những sức bao quát rộng rãi, không có những sáng tạo hàng loạt, to lớn, không có phong thái ung dung, đĩnh đạc mà khẩn trương của một lối làm ăn qui mô, với nhiều thuận lợi về tự nhiên và kỹ thuật. Sự đam đang, có thể nói là sắc sảo ở đây mang tính chất đối phó trong hoàn cảnh vượt khó nhiều hơn. Hoàn cảnh lao động của những người phụ nữ dưới chế độ phong kiến hàng nghìn năm, dưới thời Pháp thống trị gần trăm năm là như thế. Mà hoàn cảnh lao động của những người phụ nữ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước không kinh qua chủ nghĩa tư bản, lại bị giặc Mỹ xâm lược phá hoại thời gian gần đây, cũng có những điều gần giống như thế.
Con người nội trợ (quán xuyến việc nhà)
Trong người phụ nữ cũng có những thuộc tính đặc biệt. Đây là những điều chủ yếu làm nên cái dáng vẻ riêng của người phụ nữ Việt Nam mà nhiều người đã chú ý. Bình thường, mọi phụ nữ đều là những thành viên trong các gia đình, gắn bó chặt chẽ với gia đình. Và kể từ thời kỳ mẫu quyền trong lịch sử nguyên thuỷ cho tới bây giờ, trong hàng nghìn, hàng vạn năm, chức năng hiển nhiên của các thành viên nữ trong các gia đình, chính là nội trợ.
Vai trò của những người phụ nữ Việt Nam trong gia đình, như đã thấy, là một vai trò rất đặc biệt. Đó là vai trò thực tế của người chủ gia đình, vai trò thực tế của những trụ cột gia đình - mặc dù về hình thức và trên danh nghĩa, đấy là vai trò của người đàn ông.
Trong vai trò thực tế ấy, người phụ nữ như thế nào thì gia đình như thế. Ngược lại, tình trạng và hoàn cảnh của các gia đình Việt Nam như thế nào, tất nhiên cũng ảnh hưởng đến người phụ nữ: Họ cũng phải tạo ra những bản lĩnh cần thiết để có thể thích ứng với vai trò của mình.
Các gia đình Việt Nam với chế độ phụ quyền gia trưởng, hình thành và ổn định lâu dài trong tiến trình lịch sử Việt Nam, trở nên có một cấu trúc độc đáo với đặc điểm kỳ lạ của nó: đấy là nơi giam hãm, trói buộc người phụ nữ, nhưng lại do phụ nữ thực tế làm chủ và là trụ cột! Từ đặc điểm này, chúng ta thấy phụ nữ là người sống chết gắn bó rất chặt chẽ với gia đình về mọi mặt, và là những người nội trợ có khả năng đảm nhiệm, phụ trách rất cao. Đảm nhiệm, phụ trách nền kinh tế của gia đình, họ có chung những phẩm chất tinh thần với người phụ nữ lao động, như đã thấy. Đảm nhiệm, phụ trách giường mối của gia đình, toàn bộ thể chế và nội dung tinh thần của gia đình, đây mới là lĩnh vực kết tinh những thuộc tính đặc sắc của người phụ nữ nội trợ Việt Nam. Ở đây, những người vợ Việt Nam là những người thuỷ chung trọn vẹn với chồng. Ở đây, những người mẹ Việt Nam hy sinh trọn vẹn cho con cái. Ở đây, những người con gái, con dâu, nết na, thảo hiền đối với bậc trên và rèn luyện những đức tính của người mẹ đối với lớp tuổi dưới, cũng như chờ dịp thể hiện những đức tính của người vợ đối với người yêu, người chồng tương lai của mình.
Đấy là những người nội trợ trung hậu. Và chúng ta hiểu rằng sự trung hậu ở đây có phần được tạo rèn từ trong đấu tranh, khi âm thầm, lúc quyết liệt, của người phụ nữ trong hàng nghìn năm liên tục đối với giáo lý và sự ràng buộc gò bó phong kiến, để cố gắng cải tạo nó, biến những tín điều khe khắt trở thành đức hạnh, nết na. Nhưng đây chỉ là vấn đề phụ. Điều chủ yếu ở đây là vai trò lịch sử của người phụ nữ Việt Nam đối với gia đình, mà họ đã đảm nhiệm lấy một cách tự nhiên, bình dị. Điều chủ yếu ở đây cũng là sự thiệt thòi, chịu đựng của họ trong khi gánh vác và quản lý gia đình. Đó là một nghĩa vụ cao cả. Sự cao cả này có ý nghĩa lớn về đạo đức , nhưng chính cũng vì đạo đức mà cần phải tiếp sức và đền bù xứng đáng cho sự cao cả đó, không thể coi là một khổ hạnh tất yếu của con người nội trợ trong người phụ nữ Việt Nam.
Con người chiến sĩ
Trong người phụ nữ Việt Nam là một hiện tượng độc đáo nhất. “Giặc đến nhà, đàn bà phải đánh”, là truyền thống đặc biệt của phụ nữ Việt Nam. Chỉ tính từ thời các vua Hùng dựng nước cho đến nay, 24 cuộc chiến tranh ái quốc với quy mô cả nước đã nổ ra! Biết bao thế hệ phụ nữ đã trở thành chiến sĩ trong những lần vận nước gặp nguy nan. Nhưng không phải chỉ có thế. Trong cuộc đấu tranh giai cấp thường xuyên làm nền cho sự tiến hoá của xã hội, tất cả các thế hệ phụ nữ - với đặc điểm là “công dân chính trị” của họ, cũng đều trở thành những chiến sĩ, tham gia đấu tranh dưới mọi hình thức. Từ những người phụ nữ đã nổi dậy dưới lá cờ Hai Bà Trưng, những vợ ba Cai Vàng, vợ ba Đề Thám… thậm chí cả những người
“Gái goá lo việc triều đình
Lo Nam, lo Bắc việc mình không lo”
và cả những mẹ Đốp luôn luôn sẵn sàng vạch mặt bọn hào lý gian tham, thối nát ở khắp nơi, cho đến những Võ Thị Sáu, Nguyễn Thị Chiên, Út Tịch, Kan Lịch và mẹ Suốt – hàng trăm thế hệ phụ nữ đã truyền đi và nhân lên những thuộc tính đặc sắc của người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam. Đó là những con người có một lòng yêu nước rộng lớn và một tinh thần lo toan rất tích cực đến việc chung. Đó là những con người sẵn sàng chịu đựng với một sức bền kỳ diệu những gay go, gian khổ, những hy sinh to lớn nhất. Đó là những con người bất khuất, không sức mạnh thống trị nào có thể đè bẹp nổi, những con người rất mực kiên cường, không sức mạnh xâm lược nào có thể bẻ gãy được.
 |
Trưng vương đánh đuổi quân Nam Hán (Tranh Vy Vy) |
Họ là những chiến sĩ dũng cảm. Đối với người phụ nữ Việt Nam, đấy là phẩm chất của những chiến sĩ có sức mạnh sở trường ở phương diện tinh thần, tình cảm. Trong hoàn cảnh khó khăn, gò bó thường xuyên, khả năng vật chất và kỹ thuật của những chiến sĩ ở đây không nhiều. Nhưng những cơ sở và điều kiện để tạo ra những khả năng đó, lúc nào cũng có. Đó là những phẩm chất của người lao động và người nội trợ ở trong con người phụ nữ Việt Nam. Khi cần thiết, chỉ cần thời gian, sự tổ chức và tập hợp. Và đấy là điều đặc sắc, thuận lợi và may mắn cho người phụ nữ và cho dân tộc: lúc nào cũng có con người chiến sĩ với những phẩm chất rất tốt nằm trong người phụ nữ Việt Nam.
 |
(Ảnh sưu tầm) |
Con người lao động đảm đang, con người nội trợ trung hậu, con người chiến sĩ dũng cảm - đấy là hình ảnh truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Và đấy là những truyền thống đã hình thành ổn định trong suốt quá trình lịch sử lâu dài. Những người phụ nữ Việt Nam hiện đại mang trong mình truyền thống đó và ngày càng tự giác phát huy truyền thống đó trong hoàn cảnh và điều kiện mới. Khẳng định điều này, ngày 20/10/1966 Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam đã tặng danh hiệu “Dũng cảm, đảm đang chống Mỹ cứu nước” cho thế hệ phụ nữ Việt Nam hiện đại. Uỷ ban trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam cũng tuyên dương danh hiệu “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” cho phụ nữ toàn miền Nam.
Từ thời kỳ cách mạng hiện đại trở đi, trên cơ sở những truyền thống đã ổn định trong hoàn cảnh và điều kiện mới của lịch sử, việc phát huy những phẩm chất tinh thần của phụ nữ Việt Nam đã và đang có nhiều thuận lợi. Mọi hoạt động đã không còn mang tính chất tự phát. Dưới sự cổ vũ và lãnh đạo của Đảng mác-xít-lê-nin-nit của giai cấp vô sản Việt Nam, việc tự giác nhận thức và phát huy truyền thống đã trở thành thường xuyên. Những biến chuyển, hiệu quả bước đầu đã làm đà cho những chuyển biến và hiệu quả lớn hơn trong tương lai.
 (Ảnh sưu tầm) |
Trong thời đại mới, con người lao động đảm đang trong người phụ nữ Việt Nam đã mở rộng tầm nhìn, sức suy nghĩ và khả năng của nó. Những đức tính lao động mới của người công nhân đã và đang được đồng nhất hoá với những phẩm chất cũ của người nông dân trong những người phụ nữ lao động Việt Nam, vươn tới đỉnh cao sáng tạo mới. Toàn bộ hoạt động của những người phụ nữ lao động trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chống Mỹ, cứu nước ở miền Bắc đã cho thấy rõ điều đó.
Con người nội trợ trung hậu trong người phụ nữ Việt Nam cũng đang mở rộng tầm nhìn và diện hoạt động. Thấm nhuần lời dạy của Hồ Chủ Tịch - gia đình không phải chỉ còn là cái nhà và cái sân, mà dần phải coi dân tộc, tổ quốc rồi thế giới nữa là gia đình - người phụ nữ Việt Nam gần đây đã không còn để khuôn khổ gia đình riêng làm cái hàng rào vây chặt, hạn chế sự trung hậu của mình.
Con người chiến sĩ trong người phụ nữ ngày nay và người phụ nữ ngày xưa cũng có sự khác biệt hẳn về chất. Ý thức và sự giác ngộ về dân tộc, giai cấp và những qui luật phát triển tất yếu của lịch sử trong người nữ chiến sĩ hiện đại, chính là một nền tảng cơ bản của sự khác biệt đó. Chính điều đó đã tạo ra những khả năng kỳ diệu mới của những người nữ chiến sĩ dũng cảm hiện đại Việt Nam.
Như thế, bằng những truyền thống tốt đẹp, phong phú và việc phải phát huy những truyền thống đó, người phụ nữ Việt Nam đã tạo ra những phẩm chất tinh thần đặc sắc của mình.
“Cảm ơn gương sáng của các bạn đã làm cho danh từ “phẩm chất” giữa được trọn vẹn ý nghĩa thực sự của nó” (Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Pháp gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, ngày 18-2-1969). “Những thành tích to lớn và vẻ vang của chị em phụ nữ Việt Nam là một tấm gương quí báu và sự cổ vũ to lớn, động viên phụ nữ chúng tôi quyết tâm, dũng cảm trong đấu tranh vì sự tiến bộ của mình” (Thư của Hội Liên hiệp phụ nữ Lào gửi Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, ngày 20-7-1967). Những ý kiến đó xuất phát từ sự nhận thức của các bạn quốc tế về phẩm chất tinh thần truyền thống của phụ nữ Việt Nam. Mọi người đều biết rõ: về nhiều mặt, phụ nữ Việt Nam còn đang gặp những khó khăn trở ngại, còn đang có những hạn chế, thiếu sót cần khắc phục. Nhưng chính là, với những phẩm chất tinh thần đặc sắc của mình, phụ nữ Việt Nam đã được phụ nữ thế giới ca ngợi, đã được xem như một trong những hình tượng đẹp đẽ và trong sáng của thế giới cách mạng.
Con người lao động đảm đang, con người nội trợ trung hậu, con người chiến sĩ dũng cảm - những con người ấy cùng với những thuộc tính, phẩm chất tinh thần của nó đã hợp thành tính cách cơ bản của người phụ nữ Việt Nam. Ở một tính cách đa dạng và phong phú như thế, có thể lọc ra, tìm lấy điều gì chung nhất, điều gì bao trùm, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam?
Trong những lúc vận nước gặp cơn sóng gió, con người chiến sĩ trong người phụ nữ Việt Nam vụt trội lên. Đây là điều đã thu hút sự chăm chú của nhiều người. Nhưng hãy tìm đọc cuốn sổ tay tác chiến của đại đội trưởng pháo bờ biển nữ dân quân xã N. (Quảng Bình), Ngô Thị The. Giữa những trang nhật ký chiến đấu ghi chi tiết kỹ thuật và tình hình chiến sĩ với vũ khí, khí tài tự nhiên có những dòng rõ ràng không đúng điều lệnh quân sự: “Nếu nạp lên, trên không nhận, sẽ cho giữ vỏ đạn lại, chờ đánh xong giặc Mỹ, sẽ đem đúc nồi đồng”! Con người lao động và nội trợ trong người chiến sĩ Ngô Thị The ấy đang để lộ tính cách cơ bản của mình. Và hình ảnh quen thuộc, gần gụi về vị Phó Tư lệnh các lực lượng vũ trang miền Nam Nguyễn Thị Định, cũng là hình ảnh một người mẹ, một người chị, ngồi trên chiếc võng dã chiến, kim chỉ và chiếc áo trong tay, trìu mến nhìn và chăm chú nghe chiến sĩ. Đấy chính là một phụ nữ:
 (Ảnh sưu tầm) |
“Lúc tiến lệnh đều trăm đội ngũ,
Đêm về ngồi vá áo chiến binh!”
(Lưu Trọng Lư: Người con gái Sông Gianh)
Như thế, con người lao động và con người nội trợ ở trong mỗi người phụ nữ Việt Nam mới chính là hình ảnh thường hằng về họ. Con người chiến sĩ, lúc nổi lên thật rạng rỡ, nhưng nhiều lúc vẫn lẩn vào con người lao động và nội trợ, có khi ngay cả vào dịp đang xuất hiện rõ rệt nhất, nó cũng mang cốt cách của hai con người kia. Người phụ nữ nông dân Cao Thị Thả ở Tĩnh-gia (Thanh Hoá), chèo thuyền xông ra biển dưới bom đạn của máy bay Mỹ, diệt cả bọn giặc lái nhảy dù lẫn máy bay đậu trên nước và máy bay lên thẳng của giặc, nhưng vẫn nói rất đúng: “Phải nói công bằng rằng không có thằng giặc Mỹ thì đàn bà chúng tôi mới không phải cầm đến khẩu súng này”. Và bà mẹ Suốt, lập nên kỳ tích trong phục vụ chiến đầu: hàng chục, hàng trăm lần chèo thuyền đưa cán bộ, bộ đội vượt sông trước mưa bom bão đạn, khi được nhà thơ Tố Hữu thán phục hỏi: “Gan chi gan rứa mẹ nờ?”, vẫn chỉ coi trận chiến đấu của mình như là những lần làm ăn bình thường của ông lão ở nhà: “Ra khơi ông còn dám, tui chẳng liều bằng ông!”.
Phong thái bao trùm cốt cách và tâm hồn cơ bản của người phụ nữ Việt Nam đã được tìm thấy trong những trường hợp đó. Đấy là sự bình dị, là lòng nhân ái, là ân tình và yêu thương đằm thắm. Chính những điều đó đã làm cho người phụ nữ Việt Nam cần cù, tỷ mỉ, nhẫn nại, dẻo dai, căn cơ, tằn tiện, chịu khổ, chịu khó mà lao động đảm đang. Bản thân người phụ nữ dường như không còn thấy đặt ra nhu cầu hưởng thụ gì to tát, nhưng chính là vì chồng con, họ hàng rồi xóm làng, rồi vì đất nước, dân tộc. Vì tình thương yêu tất cả mà họ đã lao động! Cũng chính với tấm lòng trung hậu, với tình thương yêu mênh mông đối với người thân và đồng bào chân chính của mình mà người phụ nữ đã thuỷ chung hy sinh, quán xuyến, trong khi làm nghĩa vụ nội trợ. Và cũng chính vì tấm lòng nhân ái bao trùm mà người phụ nữ đã chiến đấu kiên cường, bất khuất, sẵn sàng chịu đựng và hy sinh oanh liệt.
Khi nhà thơ Chế Lan Viên hỏi một nữ anh hùng: “Vì sao em chiến đấu?” thì câu trả lời thật cảm động là: “Em thương. Em thương các anh quá, nên em liều. Em thấy máu đổ là em thương…”. Cũng thế, hỏi cô Cam Thị Thưng vì sao 17 tuổi, với người bé nhỏ nhưng đã vượt qua bom đạn, cõng bổng được một đồng chí bộ đội bị thương về nơi cứu chữa an toàn; chúng ta cũng được nghe câu trả lời của cô qua nụ cười ngượng nghịu: “Em nghĩ thương các anh mà cõng thấy nhẹ…”. Trái tim nhân ái của phụ nữ Việt Nam là một trái tim lớn. Trái tim đó mang nặng tình thương yêu chính nghĩa nên có lòng căm giận kẻ thù bất nhân mà chiến đấu. “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” - Nguyễn Đình Chiểu xưa đã phát hiện và khẳng định đặc điểm tâm lý ấy của Việt Nam, của phụ nữ Việt Nam.
Lòng nhân ái có thể xem như là hạt nhân cơ bản trong tính cách người phụ nữ Việt Nam. Lòng nhân ái đó lớn mênh mông trong suốt tiến trình lịch sử đấu tranh của dân tộc, làm nền cho những phẩm chất tinh thần phong phú, đặc sắc, những khả năng và vai trò thực tế to lớn của họ.
(Trích Lời kết thúc trong tác phẩm “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” của Lê Thị Nhâm Tuyết, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội: 1975. Có điều chỉnh, bổ sung)