Khi đi học, các em học sinh gắn bó với trường họ-nơi đã đào tạo cả trí lực lẫn thể lực cho thế hệ tương lai của đất nước, vì vậy môi trường học đường phải bảo đảm những yêu cầu cần thiết về vệ sinh, đặc biệt là ở những vùng khó khăn nông thôn, vùng cao, miền núi và biên giới; vấn đề này tuy đơn giản nhưng cần được quan tâm đúng mức.
Vệ sinh học đường là một hoạt động của ngành y tế dự phòng với mục tiêu chăm sóc sức khỏe lứa tuổi học sinh; bảo đảm yêu cầu trong việc xây dựng trường học, công trình vệ sinh của nhà trường; bảo đảm cơ bản vệ sinh trường, lớp, các phương tiện phục vụ học tập. Đồng thời xây dựng tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của y tế trường học; xây dựng các tiêu chuẩn để đánh giá vệ sinh trường học, lớp học.
Thực trạng tình hình
Theo số liệu thống kê của Dự án Học đường thuộc Bộ Y tế, hiện nay có gần 60% phòng học đạt yêu cầu về việc thông gió và nguồn chiếu sáng; chỉ có 49% trường sử dụng nguồn nước máy, 42% trường dùng nước giếng khoan có lọc nước dùng cho sinh hoạt; vẫn còn 9% trường học ở ngoại thành dùng nước giếng khoan không có lọc nước và nước mưa. Đồng thời có gần 30% trường học chưa có đủ nước uống và nguồn nước sinh hoạt phục vụ cho học sinh và giáo viên. Ngoài ra cũng ghi nhận có 75% trường có hệ thống thu gom, xử lý rác thải, 35% trường học chưa có hệ thống thoát nước theo quy định; 40% trường học có bếp ăn tập thể, căng tin chưa bảo đảm vệ sinh... Bộ Giáo dục-Đào tạo cho rằng tỷ lệ cung cấp nước sạch và vệ sinh trường học đạt được 87%; tỷ lệ công trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường trong trường học tăng khoảng 2% mỗi năm phục vụ cho hàng chục triệu học sinh. Tuy vậy ở nhiều nơi, việc cung cấp nguồn nước sạch và các công trình vệ sinh học đường còn thiếu thốn, xuống cấp; đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa; ảnh hưởng đến sức khỏe, học tập, giảng dạy của học sinh và giáo viên. Thực trạng về vệ sinh học đường trong thời gian qua đã được các cơ quan thông tin báo chí đề cập khá nhiều mặc dù ai cũng cho rằng vấn đề này là việc cần phải được đặc biệt quan tâm nhưng thực tế chuyển biến còn chậm.
Các yêu cầu cần thiết
Tuổi học đường bao gồm học sinh trong nhóm từ 7 đến 18 tuổi, chiếm khoảng từ 1/4 đến 1/3 dân số của cả nước. Đây là nhóm tuổi được cho là khỏe mạnh và ít bệnh tật. Tuy vậy với môi trường sống, sinh hoạt và học tập; các em học sinh thường bị mắc các bệnh nhiễm trùng, nhiễm ký sinh trùng như bệnh ngoài da, bệnh đường tiêu hóa, bệnh xương khớp... Khi học sinh phải học nhiều trong một môi trường không bảo đảm yêu cầu thì có thể mắc các bệnh liên quan đến trường học như tật biến dạng cột sống, tật cận thị... Vì vậy đây là vấn đề cần phải được quan tâm để bảo đảm yêu cầu vệ sinh học đường, thực hiện đầy đủ các chế độ học tập, rèn luyện và sức khỏe của các em học sinh.
Địa điểm, diện tích xây dựng trường học
Trước hết phải bắt đầu từ yêu cầu về xây dựng trường học ở địa điểm, diện tích phù hợp; cách bố trí các khu nhà trong trường học hợp lý. Địa điểm xây dựng trường học phải ở ngay trung tâm của khu dân cư, thuận tiện cho việc đi lại của học sinh tùy theo đối tượng. Học sinh tiểu học đi bộ đến trường trong phạm vi khoảng từ 1.000 mét trở xuống, đối với miền núi có thể từ 2.000 mét trở xuống. Học sinh trung học cơ sở đi bộ đến trường trong phạm vi từ 1.500 mét trở xuống, đối với miền núi có thể từ 3.000 mét trở xuống. Học sinh trung học phổ thông có thể đi bộ đến trường từ 3.000 mét trở lên. Chỗ xây dựng trường học phải ở nơi cao ráo, thoáng mát, đủ ánh sáng, sạch sẽ và yên tĩnh. Phải cách xa các trục đường giao thông lớn, quốc lộ, đường tàu hỏa, sân bay, ao hồ, sông suối... Đồng thời cũng phải cách xa khu công nghiệp. hầm lò, khu xăng dầu, bến tàu xe...; cách xa các nguồn ô nhiễm như bệnh viện truyền nhiễm, bãi rác, nghĩa trang, chợ... Diện tích xây dựng trường học cũng phải đủ rộng để có thể thiết kế, bố trí, sắp xếp các phòng học, sân chơi, bãi tập, trồng cây xanh, hàng rào bảo vệ... Đối với khu vực nông thôn, miền núi; diện tích trung bình cần thiết khoảng 10m2 cho mỗi học sinh; ở khu vực thành phố, thị xã diện tích này khoảng từ 6m2 trở lên cho một học sinh. Khi thiết kế xây dựng trường học, cần bảo đảm từ 20 đến 30% diện tích để thi công khu nhà, phòng làm việc, lớp học; từ 20 đến 40% diện tích để trồng cây xanh và từ 40 đến 50% diện tích để bố trí sân chơi, bãi tập... Diện tích phòng học phải bảo đảm trung bình từ 1,1 đến 1,25 m2 cho mỗi học sinh. Kích thước phòng học cần xây dựng chiều dài từ 8,5 mét, chiều rộng từ 6,5 mét và chiều cao từ 3,6 mét trở lên.
Cách bố trí các khu nhà trong trường học
Khu vực xây dựng các lớp học là quan trong nhất. Các tòa nhà khu vực lớp học phải cách xa từ 2 đến 3 lần so với khoảng chiều cao của nhà đối diện, kiến trúc xây dựng thường sắp xếp thành một hàng. Cửa lớn và hiên nhà hướng về phía sân trường, phía còn lại không có hiên nhưng có nhiều cửa sổ để lấy ánh sáng và thông gió cho lớp học. Khu vực xây dựng phòng làm việc của giáo viên, ban giám hiệu phải ở vị trí trung tâm, hướng về các lớp học để dễ dàng quan sát, theo dõi hoạt động của học sinh. Khu vực xây dựng phòng thí nghiệm cho trường nên đặt ở vị trí riêng biệt, cách xa khu vực lớp học để bảo đảm sự an toàn.
|
Chỗ rửa tay trong nhà vệ sinh của một trường học đạt tiêu chuẩn (ảnh internet) |
Các công trình vệ sinh
Trường học khi xây dựng phải bảo đảm đủ hệ thống cung cấp nước uống, nước sinh hoạt; xử lý nước thải, rác thải và nhà vệ sinh. Nước uống là loại nước sạch được đun sôi, để nguội cho học sinh uống tại trường. Mỗi buổi học, phải bảo đảm bình quân tối thiểu cho mỗi học sinh có nước uống từ 0,3 lít trở lên đối với mùa nóng và từ 0,1 lít trở lên đối với mùa lạnh. Nếu nhà trường có hệ thống căng tin phục vụ cho nhu cầu ăn uống, giải khát của học sinh khi được nghỉ giải lao cũng phải bảo đảm chất lượng an toàn vệ sinh thực phẩm.
Nước sinh hoạt cũng rất cần thiết cho học sinh để bảo đảm vệ sinh. Nếu sử dụng nguồn nước máy phải bảo đảm tối thiểu 1 vòi nước cho 200 học sinh trong mỗi buổi học. Nếu sử dụng nước giếng khoan phải bảo đảm từ 4 đến 6 lít nước cho mỗi học sinh trong một buổi học. Hệ thống nước thải trong trường học cần được xây lắp bằng hệ thống cống, rãnh, hào thoát nước để tránh ngập lụt, lầy lội khi đến mùa mưa. Đối với việc quản lý rác thải, phải bố trí sọt đựng rác trong mỗi phòng học, phòng làm việc; lắp đặt các thùng chứa rác, hố rác tập trung ở cuối hướng gió, xa phòng học và phòng làm việc, rác được vận chuyển và xử lý hàng ngày theo đúng quy trình quy định. Đối với nhà vệ sinh, bắt buộc trường học phải có hệ thống hố xí tự hoại; nếu không có điều kiện thì tối thiểu phải có hố xí thấm dội nước. Bình quân từ 100 đến 200 học sinh phải có một bệ xí đại tiện và mỗi 50 học sinh phải có một bệ xí tiểu tiện. Nhà vệ sinh phải có vòi nước chảy để rửa tay sau khi đi vệ sinh, đủ nước để dội sạch bệ xí, làm vệ sinh, cọ rửa thường xuyên, không để có mùi hôi thối. Nhà vệ sinh cần bố trí cho học sinh và giáo viên ở các vị trí riêng, có riêng biệt phòng nam và nữ.
Khuyến nghị
Những yêu cầu cần thiết đã nêu trên về vệ sinh học đường chỉ là các vấn đề đơn giản khi bắt đầu khởi công xây dựng trường lớp. Tuy vậy, mặc dù đơn giản nhưng không phải tất cả các trường học hiện nay tại các địa phương đều bảo đảm những yêu cầu này, nhất là những trường đã xây dựng khá lâu, có tình trạng hư hỏng, xuống cấp trầm trọng; đặc biệt là ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng cao và miền núi. Thời gian qua, các cơ quan thông tin, báo chí đã phản ánh khá nhiều về sự nhếch nhác của vấn đề vệ sinh học đường ở một số địa phương; vì vậy ngành giáo dục-đào tạo, các cấp chính quyền, ban, ngành, đoàn thể có liên quan cần quan tâm và có biện pháp khắc phục sớm mặc dù biết rằng đây là việc làm khá đơn giản. Đừng nên nói suông “vì lợi ích trăm năm trồng người” mà không quan tâm đến những vấn đề đơn giản của vệ sinh học đường, nơi đó có thế hệ tương lai của đất nước đang được học tập và đào tạo.