|
Sau một ngày lao động |
Giải pháp nào để duy trì thành quả phòng, chống bệnh sốt rét tại huyện A Lưới
Đặc điểm tình hình huyện A Lưới A Lưới là một huyện vùng cao, miền núi, biên giới thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế có 21 xã, thị trấn với 133 thôn bản, tổ dân cư, dân số 41.932 người sống trong vùng sốt rét lưu hành nặng và sốt rét lưu hành vừa theo phân vùng dịch tễ sốt rét và can thiệp. Đường biên giới giáp ranh với hai tỉnh Xaravan và Xêkông (nước CHDCND Lào) dài 85 km có 2 cửa khẩu S3 Hồng Vân, S10 A Đớt và 1 cửa khẩu La Lay thuộc tỉnh Quảng Trị cài xen kẻ vào ở phía Bắc của huyện. Tại đây có đường Hồ Chí Minh dài 106 km chạy theo chiều dọc của huyện nối vùng sốt rét lưu hành tỉnh Quảng Trị ở phía Bắc và tỉnh Quảng Nam ở phía Nam. Đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống ở 19/21 xã, thị trấn với 6.064 hộ gia đình và 32.086 người gồm 8 loại dân tộc Pakô, Tàôi, Katu, Vân kiều, Pahy, Tày, Mường, Nùng. Qua quá trình tác động các biện pháp can thiệp, tình hình sốt rét của huyện A Lưới đã có chuyển biến đáng kể. Cho đến năm 2004, số người mắc sốt rét giảm 92,73% (396/5.449), sốt rét thể ác tính giảm 100% (0/86), tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét giảm 95,48% (1,20/26,56) so với năm 1991, không còn tử vong do sốt rét (năm 1991 có 12 tử vong). Tuy vậy, tình hình sốt rét vẫn còn những biến động, không ổn định, số bệnh nhân sốt rét năm 2005 tăng 11,87% (443/396) so năm 2004, năm 2006 giảm 9,03% (403/443) so năm 2005 nhưng vẫn ở trên nền cao. Sốt rét thể ác tính được ghi nhận 2 trường hợp vào năm 2006 nhưng không có bệnh nhân nào bị tử vong. Dịch sốt rét được khống chế không xảy ra. Tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét trên lam máu xét nghiệm dao động chưa kiểm soát được, năm 2005 (8,47%) tăng hơn 7 lần so năm 2004 (1,20%), năm 2006 đã được khống chế hạ thấp (1,02%). Bệnh nhân sốt rét và ký sinh trùng sốt rét phát hiện được phần lớn là mắc bệnh ngoại lai do bị nhiễm ở những nơi khác ngoài khu vực được bảo vệ về các cơ sở. Vấn đề tồn tại và nguy cơ dịch bệnhĐồng bào các dân tộc tại huyện A Lưới do đời sống kinh tế còn gặp nhiều khó khăn nên thường có tình trạng di biến động như đi rừng để khai thác lâm thổ sản, thu lượm phế liệu chiến tranh, làm rẫy và ngủ đêm ở rẫy, qua về biên giới Lào với nhu cầu thăm thân, trao đổi, mua bán hàng hóa trong quan hệ đồng tộc ... Tình trạng di biến động dân này đã làm cho đồng bào các dân tộc có nhiều nguy cơ mắc bệnh sốt rét, sự ổn định tình hình sốt rét khó kiểm soát được. Vào các năm 1998 và 2001, nguy cơ dịch sốt rét xảy ra ở phạm vi thôn bản tại một số xã biên giới do mầm bệnh ngoại lai từ Lào xâm nhập vào nội địa từ một số người ở Lào qua, người ở thôn bản qua Lào trở về và có khả năng lây lan bệnh tại chổ qua trung gian của muỗi truyền bệnh chưa hoàn toàn bị cắt đứt. Địa phương đã chủ động phát hiện và khống chế nguy cơ dịch sốt rét kịp thời từ hệ thống giám sát và kiểm soát tình hình tại các cơ sở. A Lưới mặc dù không còn hộ đói nhưng còn hộ nghèo. Hộ nghèo của huyện (thu nhập bình quân theo quy định mới 200.000 người/người/tháng; 2.400.000 đồng/người/năm) còn chiếm tới 37%, tỷ lệ suy dinh duỡng của trẻ em dưới 5 tuổi chiếm 50%. Địa phương đã thực hiện chương trình xóa nhà tạm cho 2.407 hộ gia đình nghèo để góp phần giúp đỡ đồng bào các dân tộc có đời sống ổn định, có điều kiện để phòng, chống bệnh sốt rét tốt hơn. Với tính chất đặc thù của vùng cao, miền núi, biên giới, nơi có nhiều đồng bào các dân tộc thiểu số sinh sống, công tác phòng, chống bệnh sốt rét được triển khai thực hiện còn gặp phải các khó khăn, hạn chế như địa bàn không được thuận lợi vì cơ sở hạ tầng chưa được phát triển, tình hình kinh tế-xã hội và tập quán sinh hoạt của người dân chưa được cải thiện. Một bộ phận đồng bào còn nghèo, còn gắn đời sống dựa vào trồng nương rẫy ở xa, khai thác lâm thổ sản rừng, thu lượm phế liệu chiến tranh, săn bẫy thú rừng ... Tình trạng đi rừng, ngủ rẫy, qua về biên giới Việt-Lào để thăm thân do có quan hệ đồng tộc ... của đồng bào các dân tộc chưa kiểm soát, quản lý hết được về mặt chính quyền cũng như y tế nên làm cho công tác phòng, chống bệnh sốt rét gặp khó khăn. Các đối tượng này thường có nguy cơ bị mắc bệnh sốt rét. Thống kê báo cáo hàng tháng, hàng năm của y tế cơ sở đã ghi nhận số bệnh nhân sốt rét ngoại lai và nhiễm ký sinh trùng sốt rét ngoại lai từ các hoạt động đi rừng, ngủ rẫy, giao lưu qua lại biên giới Việt-Lào trở về cơ sở của đồng bào các dân tộc chiếm khoảng 40-50% số bệnh nhân sốt rét chung. Ý thức phòng, chống bệnh sốt rét, tự bảo vệ của một bộ phận đồng bào dân tộc chưa cao khi có các hoạt động ra khỏi khu vực được bảo vệ bằng các biện pháp can thiệp phòng, chống. Không đem theo màn ngủ, không xin cấp thuốc tự điều trị mang theo khi ra khỏi thôn bản vì sợ bị kiểm soát, quản lý về mặt chính quyền ở cơ sở. Nếu bị mắc bệnh sốt rét trở về có tâm lý lo ngại, không đến ngay y tế cơ sở để được khám, xét nghiệm máu phát hiện bệnh và điều trị kịp thời nên nguy cơ tử vong sốt rét ngoại lai là vấn đề luôn được cảnh báo. Mặc dù sốt rét nội địa ở các vùng sốt rét lưu hành có đồng bào các dân tộc sinh sống trên cơ bản đã được khống chế, đẩy lùi nhưng tình trạng sốt rét ngoại lai, ký sinh trùng sốt rét ngoại lai do người bệnh bị nhiễm từ nơi khác về các thôn bản đã làm cho tình hình biến động, gia tăng ở một số thời điểm trong năm, tạo nên nguy cơ dịch sốt rét từ mầm bệnh ngoại lai với khả năng lây truyền tại chổ qua trung gian của muỗi truyền bệnh chưa hoàn toàn bị cắt đứt. Sốt rét sẽ quay trở lại theo quy trình này nếu không chủ động tổ chức tốt các biện pháp quản lý và can thiệp. Giải pháp duy trì thành quảCông tác phòng, chống bệnh sốt rét cho đồng bào các dân tộc tại huyện A Lướitrong thời gian qua mặc dù đã đạt được hiệu quả đáng kể nhưng vẫn còn một số vấn đề hạn chế cần có các giải pháp can thiệp như chỉ đạo y tế cơ sở tổ chức kiểm soát tốt công tác phòng, chống bệnh sốt rét ở đồng bào các dân tộc thông qua việc ký kết hợp đồng trách nhiệm với công an xã và bộ đội biên phòng đóng quân trên địa bàn. Nội dung cam kết của hợp đồng quy định người dân có nhu cầu đi rừng, vào rẫy, thăm thân ở bên kia biên giới Lào phải có giấy cho phép của công an xã, thị trấn. Muốn được cấp giấy phép, người dân phải đến Trạm Y tế để được hướng dẫn các biện pháp phòng bệnh như đem theo màn ngủ, xin cấp thuốc tự điều trị có sự xác nhận bắt buộc về thủ tục của y tế cơ sở. Căn cứ vào thủ tục này, công an xã cấp giấy phép cho đi rừng, vào rẫy và qua biên giới. Tại các Trạm, các Chốt kiểm soát, lực lượng tuần tra biên giới của Bộ đội Biên phòng có trách nhiệm kiểm tra giấy phép của công an xã, thị trấn cấp. Nếu người dân không xuất trình được giấy phép thì Bộ đội Biên phòng từ chối không cho người dân đi rừng, vào rẫy và qua biên giới. Ngoài ra, lực lượng biên phòng còn giúp trực tiếp kiểm soát thực tế việc đem theo màn ngủ, thuốc tự điều trị của người dân mang theo. Sự ràng buộc này là một yêu cầu tối thiểu để có thể kiểm soát được sốt rét ỏ đối tượng đồng bào các dân tộc nhằm góp phần giảm số người mắc bệnh do vấn đề giao lưu, đi lại của một bộ phận người dân mà chưa có được biện pháp quản lý chặt chẽ trong thời gian qua. Ngoài ra, công tác phòng, chống bệnh muốn có hiệu quả tốt cần có sự tham gia hợp tác, hỗ trợ của hệ thống quân, dân y và lực lượng biên phòng của các xã, huyện, tỉnh giáp ranh có liên quan; các tỉnh biên giới của nước bạn Lào trong việc kiểm soát, quản lý đối tượng giao lưu để có thể tác động được biện pháp can thiệp phòng, chống bệnh. Điều kiện để thực hiện giải phápMuốn thực hiện các giải pháp để duy trì thành quả phòng, chống bệnh sốt rét đã đạt được tại huyện A Lưới, cần bảo đảm kinh phí, dụng cụ, trang bị, vật liệu tuyên truyền ... để tổ chức tốt công tác truyền thông giáo dục cho đối tượng đồng bào các dân tộc tại đây. Công tác truyền thông giáo dục phòng, chống sốt rét phải được triển khai tại cơ sở thôn bản bằng phim, ảnh, kết hợp với việc phân phát các tranh, ảnh, tài liệu tuyên truyền. Trong khi chờ đợi đồng bào các dân tộc có đủ điều kiện trang bị phương tiện tự bảo vệ cá nhân, hàng năm cần cấp bổ sung một số lượng màn chống muỗi để thay thế số màn ngủ bị hư hỏng, rách nát. Các đối tượng có giao lưu, đi lại cần được hỗ trợ võng treo và màn bọc võng. Hóa chất diệt muỗi để tẩm màn ngủ, võng treo và màn bọc võng cũng cần được cung cấp nhằm tăng thêm khả năng bảo vệ phòng, chống muỗi truyền bệnh. Thuốc tự điều trị phòng bệnh và tự điều trị khi có sốt cho người dân khi ra khỏi khu vực được bảo vệ phải bảo đảm theo nhu cầu sử dụng. Trong các hiệp định về biên giới, cần đưa công tác kiểm soát, quản lý sốt rét thành một nội dung để cùng tổ chức tốt nhiệm vụ phòng, chống sốt rét cho đồng bào các dân tộc của các tỉnh giáp ranh ở trong nước có liên quan và nước bạn Lào có chung tuyến biên giới. Để duy trì thành quả phòng, chống bệnh sốt rét đã đạt được trong thời gian qua tại huyện A Lưới, tiếp tục đẩy lùi sốt rét nội địa ở cơ sở còn sốt rét lưu hành, chủ động khống chế tốt sốt rét ngoại lai và ngăn chận nguy cơ thảm họa sốt rét quay trở lại; giải pháp đã được xây dựng, điều kiện để thực hiện giải pháp đã được đề xuất; kết quả còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố với mong muốn góp phần chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ nhân dân, phát triển kinh tế-xã hội ở vùng cao, miền núi và biên giới của tỉnh Thừa Thiên Huế.
|