Tổng quan về dị ứng thuốc hay phản ứng thuốc
Dị ứng thuốc hay phản ứng với thuốc có thể gọi chung là phản ứng dị ứng (Allergic reaction) - đây là một hiệu ứng không mong muốn và không thường gặpcủa thuốc. Một số loại phản ứng dị ứng khác nhau với thuốc có thể gặp trên lâm sàng. Các pahnr ứng với thuốc có thể đi từ phát ban đỏ tại chỗ nhẹ đến vừa cho đến nghiêm trọng và có thể đe dọa các chức năng sống. Những đáp ứng của cơ thể có thể ảnh hưởng lên nhiều cơ quan khác nhau, nhưng da thường là cơ quan biểu hiện hay gặp nhất và dễ phát hiện nhất.
Điều quan trọng là làm thế nào nhận ra được triệu chứng của dị ứng thuốc vì chúng có thể nhẹ, nhwung đôi khi cũng có thể đe dọa tính mạng. Tử vong có thể do dị ứng thuốc nhưng hiếm. Một phản ứng dị ứng không thường xảy ra khi lần đầu tiên bạn dùng thuốc đó và nó thường xảy ra vào lần uống tiếp theo. Nếu bạn có phản ứng dị ứng ngay lần đầu tiên thì có thể bạn đã phơi nhiễm hoặc tiếp xúc với thuốc đó trước đó mà không biết. Không phải tất cả các phản ứng có hại của thuốc đều là dị ứng (not all adverse reactions to drugs are allergies). Thực tế, ít hơn 10% số phản ứng có hại (adverse drug reactions_ADR) là dị ứng (allergic). Một số nguyên nhân khác của ADRs là tương tác hai hay nhiều thuốc, bất khả năng bẻ gãy thuốc hoàn toàn trong cơ thể (như xảy ra trong gan và trong thận), quá liều, tác dụng phụ dị ứng thuốc như buồn nôn, nôn mửa và tiêu chảy. Nếu bạn có kinh nghiệm trong phản ứng thuốc mà không phải dị ứng (nonallergic drug reaction), điều quan trọng là mô tả nó với các nhân viên y tế. Nếu bạn không biết chỉ mô tả phản ứng là con đường tốt nhất mà bạn có thể.
Một phản ứng có hại (ADRs) là một sự trình bày mô tả có hại liên quan đến việc sử dụng các thuốc được chỉ định ở liều thông thường. Nghĩa của của sự mô tả này khác biệt với nghĩa của từ tác dụng phụ ("side effect"), vì nó có thể đôi khi có lợi. Nghiên cứu về ADRs liên quan đến lĩnh vực được biết là pharmacovigilance. Một ví dụ cho thấy phản ứng thuốc với triệu chứng toàn thân và tăng bạch cầu ái toan: đáp ứng tế bào T chống virus lên đa cơ quan (Drug Reaction with Eosinophilia and Systemic Symptoms_DRESS: A Multiorgan Antiviral T Cell Response) do nhóm tác giả Damien Picard, Baptiste Janela, Vincent Descamps, Michel D’Incan, Philippe Courville, Serge Jacquot, Sylvie Rogez, Laurent Mardivirin, Hélène Moins-Teisserenc, Antoine Toubert, Jacques Benichou, Pascal Joly và Philippe Musette đang làm việc tại INSERM U905, Bệnh viện đại học Rouen, Pháp, khoa Da của bệnh viện đại học Rouen Pháp và khoa da của bệnh viện đại học Bichat, Paris, Pháp; khoa da bệnh viện đại học Clermont-Ferrand, Pháp và khoa virus của bệnh viện đại học Limoges, Pháp và bệnh viện Saint-Louis Hospital, Paris đồng tiến hành. Kết quả cho thấy phản ứng thuốc: -Phản ứng thuốc có kèm theo tăng bạch cầu eosin và triệu chứng toàn thân là một phản ứng nghiêm trọng do thuốc, liên quan đến da và tạng. Bằng chứng đối với sự tái hoạt của virus họ herpes đã được nhìn thấy trên một số bệnh nhân DRESS;-Để hiểu biết về các thành phần miễn dịch của DRESS và mối liên quan của chúng với sự tái hoạt virus thông qua đánh giá 40 bệnh nhân biểu hiện DRESS với các thuốc carbamazepine, allopurinol, sulfamethoxazole. Kết quả các tế bào lympho T ngoại vi của bệnh nhân được đánh giá kiểu hình, tiết cytokine và repertoire của CD4+ và CD8+ và sự tái hoạt virus. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy sự tái hoạt của virus Epstein-Barr virus (EBV), virus herpes 6 ở người (HHV-6), hoặc HHV-7 trên 76% số bệnh nhân. Trong tổng số các bệnh nhân, tế bào CD8+ trong lưu hành trong máu được hoạt hóa, biểu hiện tăng chất chỉ điểm dưới da và tiết một lượng lớn yếu tố TNFα và Interferon-γ. Sự sinh các cytokine này đặc biệt cao trên các bệnh nhân có liên quan đến tổn thương tạng nặng. Ngoài ra, quần thể tế bào CD8+ mở rộng chia sẻ cùng loại rereptor của tế bào T được phát hiện trong máu, da, gan và phổi của bệnh nhân. Gầnmột nửa số CD8+ này được nhận ra một trong số các EBV epitopes. Về mặt phân loại phản ứng ADRs
ADRs có thể phân loại dựa vào nguyên nhân và độ trầm trọng của biểu hiện bệnh:
Về nguyên nhân: types A và B được đề nghị năm 1970, và các type khác đề nghị sau đó khi các hiệu ứng ADRs ban đầu chưa rõ ràng.
·Type A: tăng lệ thuộc hiệu ứng - liều theo dược học và có thể tiên đoán được;
oBất dung nạp
oTác dụng phụ
·Type B: hiệu ứng Bizarre (hoặc idiosyncratic) - không lệ thuộc liều và không tiên đoán được
·Type C: hiệu ứng mạn tính
·Type D: hiệu ứng trì hoãn
·Type E: hiệu ứng khi điều trị kết thúc
·Type F: thất bại của trị liệu
Về tính nghiêm trọng và độ nặng
Theo cơ quan quản lý thực dược phẩm của Mỹ (FDA_American Food and Drug Administration) xác định các phản ứng óc hại của thuốc nghiêm trọng một khi hậu quả trên bệnh nhân có các biểu hiện sau đây:
·Tử vong;
·Đe dọa tính mạng;
·Nhập viện (ngay từ đầu hoặc kéo dài);
·Mất khả năng - quan trọng, tồn tại, thay đổi trường diễn, khuyết tật, tổn thương và gián đoạn các chức năng hoặc cấu trúc của cơ quan cơ thể của bệnh nhân, các bất thường về mặt thể chất hoặc ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống;
·Bất thường bẩm sinh;
·Đòi hỏi can thiệp để phòng các khuyết tật trường diễn hoặc tổn thương.
Độ trầm trọng của phản ứng là một điểm về thang điểm dựa trên cảm nhận chủ quan về mức độ của vấn đề phản ứng. Thuật ngữ “severe" và "serious" khi được dùng cho các phản ứng phụ có hại song về mặt nào đó chúng có điểm khác nhau. Chúng rất dễ nhầm lẫn nhưng không thể sử dụng mọt cách thay đổi cho nhau được, đòi hỏi chăm sóc cẩn trọng. Một triệu chứng nhức đầu nặng nếu nó gây nên cường độ đau nhiều. có một thang điểm tựa như thang điểm quan sát ("visual analog scale") giúp chúng ta đánh giá độ trầm trọng. Mặt khác, một cơn nhức đầu có thể không nghiêm trọng, trừ khi chúng không thảo mãn các tiêu chuẩn liệt kê nghiêm trọng ở trên.
Nguy cơ thuốc tổng thể
Trong khi không có một thang điểm chính thống nào đặt ra để phiên giải toàn bộ các phản ứng thuốc hoặc nguy cơ thuốc một cách tổng quát nhất, thì hệ thống đánh giá nguy cơ thuốc iGuard Drug Risk Rating System là một thang điểm dựa trên thang điểm 5 màu sắc tương tự như Homeland Security Advisory System:
·Màu đỏ (nguy cơ cao)
·Màu cam (nguy cơ tăng)
·Màu vàng (nguy cơ thận trọng)
·Màu xanh da trời (nguy cơ chung chung)
·Màu xanh lá cây (nguy cơ thấp)
Vị trí
Các phản ứng có hại có thể chỉ diễn ra tại chỗ, giới hạn trong phạm vi một số vùng hoặc toàn thân, nơi mà thuốc gây nên phản ứng thông quá hệ tuần hoàn máu. Chẳng hạn, một số thuốc liên quan đến chống tăng nhãn áp có hiệu ứng toàn thân thông qua nhỏ mắt vì tỷ lệ phân bố khắp hệ tuần hoàn nhanh.
Cơ chế
Như các nhà nghiên cứu đã giải thích về cơ chế sinh hóa của sử dụng thuốc, một số ADRs là type B và hơn là type A. Cơ chế thường gặp là:
·Các bất thường về dược động học do:
- Các yếu tố về mặt di truyền;
- Tình trạng 2 hay nhiều bệnh đồng thời.
·Hiệu ứng cộng lực giữa các thuốc với nhau:
- Một thuốc và một bệnh
- Giữa 2 thuốc với nhau
Các bất thường về mặt dược động học
-Tình trạng bệnh đồng thời: nhiều bệnh khác nhau, đặc biệt có liên quan đến suy thận hoặc suy gan có thể làm thay đổi chuyển hóa thuốc. Các nguồn sẵn có báo cáo sự thay đổi về chuyển hóa của một thuốc do tình trạng bệnh đi kèm.
-Các yếu tố di truyền: chuyển hóa thuốc bất thường có thể do các yếu tố di truyền hoặc trong phase I oxy hóa hoặc phase II kết hợp. Nghiên cứu về mặt dược gen học (Pharmacogenomics) là một lĩnh vực nghiên cứu nền tảng di truyền của các phản ứng thuốc bất thường.
+Các phản ứng phase I: các allele bất thường được thừa hưởng của hệ thống cytochrome P450 có thể làm thay đổi chuyển hóa thuốc. Các thuốc viên sẵn có để kiểm tra tương tác các thuốc do tương tác trong P450. Enzyme butyrylcholinesterase (pseudocholinesterase) bất thường có thể ảnh hưởng hoặc tác động lên chuyển hóa các thuốc đó như là succinylcholine;
+Các pahnr ứng phase II: các N-acetyltransferase bất thường thừa hưởng đã kết gắn với một số thuốc để hỗ trợ cho bài tiết thì cũng có thể làm thay đổi đến chuyển hóa của một số thuốc như isoniazid, hydralazine, procainamide. Các thiopurine S-methyltransferase bất thường thừa hưởng có thể tác động lên chuyển hóa của thuốc nhóm thiopurine như mercaptopurine và azathioprine.
Tương tác với các thuốc khác
Nguy cơ tương tác thuốc tăng lên khi dùng nhiều thuốc cùng một lúc (polypharmacy).
Gắn kết protein:
Các tương tác này thường chỉ diễn ra thoáng qua và biểu hiện nhẹ cho đến khi diễn ra một tình trạng mới đạt được, chủ yếu là liên quan đến các thuốc mà không có chuyển hóa qua gan nhiều. Các protein trong huyết tương chính để gắn với thuốc là:
1.albumin
2.α1-acid glycoprotein
3.Molipoproteins
Một số thuốc tương tác với warfarin do thay đổi gắn kết với thành phần protein.
Cytochrome P450
Các bệnh nhân có chuyển hóa bất thường bởi hệ thống cytochrome P450 do các allele bất thường thừa kế hoặc do tương tác thuốc. Các thuốc sẵn có để kiểm tra tương tác thuốc do tương tác với P450.
Hiệu ứng cộng lực
Một ví dụ về cộng lực là 2 thuốc đã gây nên tình trạng khoảng QT kéo dài trên điện tâm đồ.
Đánh giá tính nhân quả
Có thể tham khảo thêm qua trang điện tử http://annals.org/cgi/content/full/140/10/795. Một phản ứng ADR không nên đánh dấu như một số chắc chắn trừ phi ADR làm dịu đi với một đề cương ”challenge-dechallenge-rechallenge protocol”.Một thang điểm đánh giá khác là Naranjo algorithm chi tiết hơn.
Giám sát cơ thể: nhiều quốc gia có một bộ ohaanj giám sát chính thống về phản ứng và độ an toàn của thuốc. Về tầm quốc tế, WHO đã có trung tâm đánh giá của Uppsala Monitoring Centre, và European Union hoạt động theo European Medicines Agency (EMEA). Tại Mỹ thì cơ quan FDA chịu trách nhiệm các nghiên cứu và giám sát giai đoạn hậu thị trường.
Một số ví dụ về phản ứng có hại liên quan đến thuốc đặc biệt
Tình trạng | Các chất hoặc thuốc dùng |
Sẩy thai, sinh non hoặc xuất huyết tử cung | misoprostol (Cytotec), thuốc sinh ra chuyển dạ - đây là một trường hợ mà ở đó các ADR dùng hợp pháp và không hợp pháp để thực hiện tống xuất thai. |
Gây nghiện | Nhiều thuốc an thần và giảm đau như diazepam, morphine, ... |
Khuyết tật bẩm sinh | Thalidomide và Accutane |
Xuất huyết ruột non | Liệu pháp aspirin |
Bệnh lý tim mạch | ức chế COX-2 (Vioxx) |
Điếc và suy thận | gentamicin |
Tử vong sau khi an thần | propofol (Diprivan) |
Mất trí nhớ | Phẩu thuật bắc cầu |
Trầm cảm hoặc tổn thương gan | interferon |
Đái tháo đường | Thuốc điều trị tâm thần kinh (thuốc chống động kinh) |
Tiêu chảy | orlistat (Xenical) |
Rối loạn cương | Nhiều loại thuốc, như thuốc chống trầm cảm |
Sốt | Tiêm vaccin (trước đây các vaccine sản xuất ra chưa được hoàn hảo như BCG và vaccine chống bại liệt) |
Tăng nhãn áp | Thuốc nhỏ mắt có corticosteroid |
Rụng tóc và thiếu máu | Liếp pháp chống ung thư, ung thư máu, ... |
Nhức đầu | Gây tê tủy sống |
Tăng huyết áp | Dùng ephedrine và dẫn suất |
Mất ngủ | Ritalin, Adderall,… |
Toan lactic | stavudine (Zerit) hoặc metformin |
Gan | paracetamol |
Chứng da đòi mồi và huyết khối | Thuốc ngừa thai chứad estrogen |
Bệnh lý thần kinh ngoại biên | Thuốc fluoroquinolone |
Chứng tiêu cơ vân | Thuốc statins |
Động kinh | Benzodiazepine |
Trình trạng ngủ lơ mơ | antihistamine |
Đột quỵ hoặc cơn đau tim | sildenafil (Viagra) khi dùng cùng nitroglycerine |
Tự tự | fluoxetine và các SSRI antidepressants khác |
Chứng Parkinson | Thuốc liên quan đến meperidine độc tính cao với thần kinh |
Chứng rối loạn thần kinh mạn tính | Sử dụng dài với thuốc metoclopramide và các thuocs điều trị loạn thần |
Đứt cơ tự phát | fluoroquinolone thậm chí xảy ra muộn 6 tháng sau khi điều trị kết thúc |
Biểu hiện của dị ứng thuốc - Hình thái lâm sàng thay đổi
Da, niêm mạc - như trên đã đề cập là vị trí và cơ quan dễ xảy ra và dễ phát hiện phản ứng nhất cũng như biểu hiện lâm sàng sớm nhất. Điều đó, không những giúp cho bệnh nhân phát hiện sớm mà cả thầy thuốc cũng nhận ra để có thái độ xử trí tích cực và kịp thời. Có lẽ không liên quan đến giới tính hay lứa tuổi, bất cứ ai trong số chúng ta đều có thể bị dị ứng thuốc và hóa chất, song đặc biệt lưu ý là những người vốn dĩ có cơ địa dị ứng từ nhỏ. Hầu hết tất cả thuốc hoặc hóa chất sử dụng cũng óc khả năng gây dị ứng (ít hoặc nhiều), đáng lưu ý nhất là các thuốc kháng sinh (penicillinie, ampicilline, streptomicine, ofloxacine, erythromycine,...), thuốc hạ sốt giảm đau (paracetamol, aspirine,...), thuốc chống co thắt, thuốc chống động kinh (Gardenal), thuốc điều trị giun sán (albendazole, mebendazole, praziquantel,...), thuốc chống viêm (serratiopeptidase), các vitamine (vitamine B1, vtamine C,...), ngay cả thuốc chống dị ứng cũng gây dị ứng.
Về mặt thực hành lâm sàng, dị ứng thuốc có thể nhiều hình thái khác nhau từ nhẹ đến nặng, thậm chí tử vong. Song nhìn chung các tác giả có thể phân thành 2 loại là dị ứng nhanh (như sốc phản vệ, mày đay, phù), dị ứng chậm (nhiễm độc trường diễn, hội chứng Lyell).
Dị ứng thuốc biểu hiện nhanh:
Dị ứng nhanh có thể biểu hiện bằng nhiều hình thái như sốc phản vệ, phù Quincke, nổi mày đay cấp, bệnh lý huyết thanh. Điều đáng lưu ý ở đây chính là phát hiện sớm và xử trí sớm các trường hợp dị ứng thuốc nhanh này. Thuật ngữ « nhanh » không thể có định nghĩa chính xác là bao lâu, song nó ám chỉ đến một phản ứng cấp thời sau khi dùng thuốc. Thời gian này tùy thuộc nhiều yếu tố như cơ địa bệnh nhân, trọng lượng bệnh nhân, loại thuốc, ...
-Mày đay cấp tính: là các dấu hiệu hay gặp nhất và thường sau khi dùng thuốc vài giờ, vài ngày ngày hoặc lâu hơn. Biểu hiện lâm sàng là các triệu chứng diễn ra đột ngột, cấp tính, dạng ngứa, nổi mề hay dát, hoặc dạng chấm trong một vùng da hoặc toàn thân, hoặc rãi rác. Tiếp sau đó, các vết này hợp thành từng mảng đám có kích thước lớn hơn, hình thù không điển hình. Các vịtrí hay bị nổi dị ứng là môi, cánh tay, cẳng tay, lưng, ngực, mắt, bẹn đùi,...Triệu chứng ngứa có thể khu trú một vùng hoặc lan tỏa toàn thân, đôi khi xen kẻ các thương tổn các hốc tự nhiên (mũi, mắt, tai, sinh dục). Một số trường hợp phù nề vùng ho hấp như mũi, thanh quản, thanh môn à dẫn đến khó thở à suy hô hấp à thậm chí gây tử vong. Bên cạnh đó, các triệu chứng mày đay và phù nề cấp tính, cơ thể còn biểu hiện các triệu chứng toàn thân như đau bụng, rối loạn tiêu hóa, sốt và khó chịu.
-Phù Quicnke: là các biểu hiện nhanh sau khi dùng thuốc và vùng thương tổn và bị ảnh hưởng rất đặc biệt - đó là các vùng bán niêm mạc, niêm mạc và thần kinh. Nhiều loại dị nguyên có thể gây phù quincke (thuốc, hóa chất, thức ăn,…)...Tổn thương da đa dạng, khu trú sâu ở hạ bì, kích thước thường lớn hơn của mề đay, ranh giới không rõ. Sẩn phù loại này xuất hiện nhanh nhưng biến mất chậm sau 1-2 ngày hoặc phải can thiệp điều trị mới chấm dứt. Đặc biệt các loại phù này thì bệnh nhân không ngứa và không đau. Các sẩn phù thường xuất hiện ở quanh khớp, hốc tự nhiên các đầu chi. Đôi khi xuất hiện sẩn ở niêm mạc của đường tiêu hóa, hô hấp. Triệu chứng toàn thân có thể có (sốt, suy nhược, đau mình mẩy, buồn nôn, tiêu lỏng). Tiến triển bệnh thànhnhiều đợt.
Dị ứng thuốc biểu hiện chậm
Biểu hiện có thể từ nhẹ, vừa đến nặng hoặc rất nặng. Cơ chế sinh bệnh là do lắng đọng phức hợp kháng nguyên - kháng thể tại màng tế bào gây ra tổn thương viêm các tổ chức biểu hiện bệnh là nhiễm độc da dị ứng thuốc. Nguyên nhân gây bệnh có thể do thuốc hoặc hóa chất... Thuốc có thể là kháng nguyên hoặc bán kháng nguyên (hapten). Các hapten này khi vào cơ thể sẽ kết hợp với protein của cơ thể trở thành kháng nguyên thực sự. Biểu hiện của bệnh rất đa dạng và phong phú, ở nhiều bộ phận khác nhau nhưng hay gặp nhất và dễ nhận thấy nhất là các tổn thương ngoài da. Ngứa xuất hiện sớm nhất sau khi dùng thuốc, hóa chất hoặc thức ăn... một vài giờ cho đến vài ngày, hoặc có khi sau hằng tuần. Khởi đầu ngứa ở đầu tứ chi, mắt, sau đó nhanh chóng ngứa toàn thân. Bệnh nhân có thể sốt nhẹ hoặc sốt cao, kéo dài, toàn thân mệt mỏi, đau đầu, có khi rối loạn tiêu hóa, nặng hơn nữa có thể bị rồi loạn chức năng và thay đổi một số thông số sinh hóa và huyết học và thỉnh thoảng gặp gan lách to.
Biểu hiện tổn thương da đơn thuần
·Biểu hiện nhẹ có thể là tổn thương da đơn thuần chỉ có ngứa, phát ban đỏ, mụn nước hoặc đám đỏ da đa dạng với nhiều hình thù khác nhau. Một số có biểu hiện biểu hiện viêm da bong vảy hoặc hồng ban nút (tổn thương là các nút nằm sâu dưới da màu hồng, ấn vào đau, có khi rất đau) hoặc có khi biểu hiện ngoài da lại là một bệnh cảnh viêm mao mạch dị ứng, hoặc loét niêm mạc (niêm mạc miệng, niêm mạc bộ phận sinh dục.. .), rụng tóc, teo hoặc tách móng...
·Thể bệnh nặng là nhiễm độc da thể bọng nước đơn thuần, hoặc thể bọng nước xuất huyết. Biểu hiện ngoài da chủ yếu là các bọng nước (trong bọng nước có chứa dịch trong), bọng nước xuất huyết (trong bọng nước có chứa dịch màu nâu đỏ), kích thước khác nhau xuất hiện rải rác khắp cơ thể. Ngoài tổn thương ở da còn có tổn thương các cơ quan nội tạng, dễ bị tổn thương nhất là gan và thận, đôi khi dẫn đến suy chức năng gan, thận
Biểu hiện da dạng hồng ban
·Hồng ban đa dạng: là một thể bệnh của nhiễm độc da dị ứng thuốc chậm. Lúc đầu người bệnh có cảm giác nóng rát ngoài da, sau đó xuất hiện tổn thương ngoài da. Tổn thương ngoài da rất đa dạng như rát đỏ, mày đay, bọng nước, mụn nước có khi rải rác, rời rạc, đôi khi các tổn thương tạo thành đám, đặc biệt có những đám nhìn như hình bia bắn hoặc hình huy hiệu, rải rác khắp người. Bệnh nhân có thể có hội chứng nhiễm trùng;
·Hồng ban cố định nhiễm sắc: là tổn thương ngoài da, thường xuất hiện ở vùng bán niêm mạc và các đầu tứ chi. Thương tổn lúc đầu là đám da đỏ kích thước bằng đồng xu hoặc to hơn, có thể có bọng nước xuất hiện ở trên đám da đỏ này, sau khi bọng nước vỡ đóng vẩy và khi bong vẩy để lại một dát thâm; đám da sẫm mầu này tồn tại rất lâu, có khi hằng năm hoặc lâu hơn nữa. Nếu cơ thể gặp lại dị nguyên bị dị ứng này, bệnh tái phát, biểu hiện ngoài da sẽ bị đúng ở vị trí lần trước bị tổn thương, những lần sau sẽ lớn hơn lần trước về mặt kích thước và nhiều hơn về mặt số lượng. Vị trí hay gặp là da và bán niêm mạc ở chung quanh mắt, miệng, cằm, mặt, quy đầu, âm hộ..., các đầu xa của tứ chi (khớp ngón tay, ngón chân, cổ tay, cổ chân). Nguyên nhân gây bệnh chủ yếu là do thuốc (biseptol, sulfaganidan, tetracycline, paracetamol, chloroquine...)
Hội chứng Steven Johnson: thể bệnh này chỉ có tổn thương chủ yếu ở niêm mạc, tổn thương chính là các bọng nước ở niêm mạc các hốc tự nhiên như niêm mạc miệng, mắt, bộ phận sinh dục... Tổn thương ở mắt nếu không được đều trị và chăm sóc đúng, kịp thời, có thể xảy ra những biến chứng như dính cùng đồ mắt làm góc nhìn bị hạn chế hoặc loét giác mạc, làm giảm thị lực, thậm chí có thể dẫn đến mù. Người bệnh thường có biểu hiện sốt cao, mệt mỏi và kém ăn hoặc không ăn được. Dovậy cần có chế độ chăm sóc phù hợp để bảo đảm dinh dưỡng cho đầy đủ..
Hội chứng Lyell:phù mạch (Angioedema hoặc angiooedema) hoặc phù Quincke (Quincke's edema) là biểu hiện sưng phồng nhanh chóng vùng bì, mô dưới da và mô dưới cơ. Rất giống như mày đay, nhưng mày đay thường biết như chứng mày đay phát ban mảng, xảy ra vùng thượng bì. Thuật ngữ angioneurotic oedema dùng để chỉ tình trạng mà hệ thống thần kinh liên quan nhưng nay thì không phải trường hợp nào cũng phù hợp nữa. Các trường hợp phù mạch tiến triển nhanh nên được điều trị cấp cứu ngay vì sự tắc nghẽn đường thở và sự nghẹt thở có thể xảy ra. Epinephrine có thể là cứu mạng cho nó khi nguyên nhân phù mạch là dị ứng. Trong trường hợp phù mạch do di truyền, điều trị epinephrine không hiệu quả. Thể bệnh đặc biệt nặng của nhiễm độc da dị ứng thuốc, đây là tình trạng hoại tử thượng bì tối cấp và có tổn thương nhiều phủ tạng, toàn trạng rất nặng, người bệnh rất dễ bị tử vong. Trước đây, tỷ lệ tử vong ở thể bệnh này gần tới 100%. Hiện nay, y học phát triển, người bệnh đã được điều trị kịp thời và chăm sóc một cách khoa học, chu đáo nên đã được cứu sống.
Bệnh xuất hiện sau khi dùng thuốc một vài giờ hoặc vài ngày. Khởi đầu, trên da thấy xuất hiện các đám da đỏ, lúc đầu nhỏ và rải rác trên cơ thể, sau đó liên kết với nhau thành những đám đỏ da lớn và trải rộng khắp người, các bọng nước nhanh chóng xuất hiện trên đám da đỏ đó. Các bọng nước này nhăn nheo, nhanh dập vỡ và khi vỡ để lại những mảng da nhăn nhúm như bị xé rách từng miếng hoặc có đường nứt như bỏng lửa, hoặc nhìn như vỏ khoai lang luộc. Lúc đầu, thương tổn ở một vùng nhỏ rồi nhanh chóng lan ra toàn bộ cơ thể. Bệnh nhân trong tình trạng thiếu nước, môi khô, nứt nẻ, dấu hiệu Nikolsky dương tính. Toàn trạng bệnh nhân rất nặng: sốt cao, vật vã hoặc li bì, có khi hôn mê. Tình trạng nhiễm trùng hoặc nhiễm độc có thể thấy ở hội chứng Lyell này. Ngoài những tổn thương nặng nề ở ngoài da, còn có các tổn thương cơ quan nội tạng khác như viêm gan, viêm thận, có ure và men gan tăng cao trong máu, có khi bệnh nhân trong tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc nặng. Lyell là một hội chứng rất nặng, tỷ lệ tử vong cao.
Đỏ da toàn thân do thuốc: thể bệnh hay gặp của nhiễm độc da dị ứng thuốc, da toàn thân đỏ như tôm luộc, không còn vùng da lành. Da đỏ từ nếp gấp lan ra toàn thân. Trên vùng da đỏ có vẩy, vẩy mỏng như vẩy phấn, ở lòng bàn chân và lòng bàn tay vẩy dày, sau đó vẩy bong như hình lột bít tất. Người bệnh sốt cao và ngứa nhiều. Ngoài dấu hiệu đỏ da và bong vẩy, các rối loạn khác có thể như hội chứng gan, thận, tiếu hóa.
Thái độ xử trí các trường hợp dị ứng thuốc
-Ngừng ngay tất cả các thuốc nghi ngờ bị dị ứng. Chú ý các thuốc đang dùng và loại thuốc cùng nhóm với thuốc đó cũng nên thận trọng;
-Đưa người bệnh đi cấp cứu của các cơ sở y tế hoặc chuyên khoa da liễu, chuyên khoa miễn dịch dị ứng (nếu các bệnh viện lớn);
-Tùy thuộc vào các thể bệnh mà cho thuốc điều trị thích hợp;
+Bù nước và điện giải khi có biểu hiện mất nước và rối loạn điện giải bằng truyền dung dịch;
+Corticoid (1-2mg/kg) bằng đường tĩnh mạch hoặc uống;
+Kháng histamin + kháng sinh chống bội nhiễm;
+Nếu có rối loạn chức năng gan, thận cần cho thuốc lợi tiểu và thuốc bảo vệ tế bào gan..;
+Chế độ chăm sóc hợp lý và dinh dưỡng rất cần thiết và quan trọng trong những thể bệnh nặng;
+Về lâu dài và phòng ngừa cho tính mạng người bệnh cần thận trọng khi dùng thuốc, đặc biệt là đối với những người có cơ địa dị ứng. Càn chú ý khai thác về bệnh sử dùng thuốc của tát cả bệnh nhân.
Tài liệu tham khảo
1.Nguyễn Hoàng Lan (2010). Cảnh giác với hội chứng Lyell. http://suckhoedoisong.vn/
2.Dị ứng ở da. http://diendanykhoa.4.forumer.com/
3.Nebeker. Jonathan R. Clarifying Adverse Drug Events: A Clinician’s Guide to Terminology, Documentation, and Reporting. Ann Intern Med. 2004;140:795-801.
4.Nebeker JR, Barach P, Samore MH (2004). "Clarifying adverse drug events: a clinician's guide to terminology, documentation, and reporting". Ann. Intern. Med. 140 (10): 795–801. PMID 15148066.
5.Rawlins MD, Thompson JW. Pathogenesis of adverse drug reactions. In: Davies DM, ed. Textbook of adverse drug reactions. Oxford: Oxford University Press, 1977:10.
6.Aronson JK. Drug therapy. In: Haslett C, Chilvers ER, Boon NA, Colledge NR, Hunter JAA, eds. Davidson's principles and practice of medicine 19th ed. Edinburgh: Elsevier Science, 2002:147-
7.Barriaux, Marianne (2007). "'Traffic-light' medicine risk website to launch". London: The Guardian. http://www.guardian.co.uk/business/2007/oct/02/7.
8.Rang, H. P. (2003). Pharmacology. Edinburgh: Churchill Livingstone. ISBN 0-443-07145-4. Page 146
9.Phillips KA, Veenstra DL, Oren E, Lee JK, Sadee W (2001). "Potential role of pharmacogenomics in reducing adverse drug reactions: a systematic review". JAMA 286 (18): 2270–9.
10.Goldstein DB (2003). "Pharmacogenetics in the laboratory and the clinic". N. Engl. J. Med. 348 (6): 553–6.
11.Weinshilboum R; Collins, Francis S.; Weinshilboum, Richard (2003). "Inheritance and drug response". N. Engl. J. Med. 348 (6): 529–37.
12.Evans WE, McLeod HL (2003). "Pharmacogenomics--drug disposition, drug targets, and side effects". N. Engl. J. Med. 348 (6): 538–49.
13.DeVane CL (2002). "Clinical significance of drug binding, protein binding, and binding displacement drug interactions". Psychopharmacology bulletin. 36 (3): 5–21.
14.Benet LZ, Hoener BA (2002). "Changes in plasma protein binding have little clinical relevance". Clin. Pharmacol. Ther. 71 (3): 115–21.
15.Sands CD, Chan ES, Welty TE (2002). "Revisiting the significance of warfarin protein-binding displacement interactions". The Annals of pharmacotherapy 36 (10): 1642–4.
16.Aoun M, Jacquy C, Debusscher L, et al. (1992). "Peripheral neuropathy associated with fluoroquinolones". Lancet 340 (8811): 127.
17.Cohen JS (2001). "Peripheral neuropathy associated with fluoroquinolones". Ann Pharmacother 35 (12): 1540–7.
18.Hedenmalm K, Spigset O (1996). "Peripheral sensory disturbances related to treatment with fluoroquinolones". J. Antimicrob. Chemother. 37 (4): 831–7.
19.Jagose JT, McGregor DR, Nind GR, Bailey RR (1996). "Achilles tendon rupture due to ciprofloxacin". N. Z. Med. J. 109 (1035): 471–2.
20.Casparian JM, Luchi M, Moffat RE, Hinthorn D (2000). "Quinolones and tendon ruptures". South. Med. J. 93 (5): 488–91.