Từ 2005-2007, giai đoạn II Dự án phòng chống sốt rét Tiểu vùng sông Mekong do ADB/WHO tài trợ được thực hiện tại hai xã Khánh Nam và Khánh Trung-huyện Khánh Vĩnh-tỉnh Khánh Hòa nhằm mục đích nâng cao kiến thức phòng chống sốt rét cho người dân, giảm tỷ lệ mắc sốt rét và chết do sốt rét cho người dân tộc thiểu số Rắc-Glây đã chuyển sang giai đoạn sắp kết thúc.Trong năm 2005:
Dự án cơ bản đã hoàn thành các nội dung cụ thể như điều tra giám sát số lượng bệnh nhân, tỷ lệ ký sinh trùng sốt rét, giao ban hàng tháng, truyền thông trực tiếp; cung cấp tivi, truyền thông tại nhà, hoạt động đào tạo, y tế thôn bản đã làm chuyển biến cơ bản nhận thức của người dân về phòng chống sốt rét. Đồng thời đã tô chức một hội thảo PCSR cho các ban ngành, tiến hành điều tra số liệu cơ bản, tập huấn cho y tế địa phươngvà y tế thôn bản. Thiết kế lại mẫu truyền thông, in ấn và phân phối cho người dân. Y tế thôn bản đến thăm hộ gia đình, xác định nhu cầu về màn tẩm, que thử chẩn đoán nhanh KST sốt rét cho người dân. Tập huấn chẩn đoán sốt rét, điều trị và tẩm màn. Giao ban hàng tháng từ huyện xuống y tế thôn bản. Dự án đã rút ra được những bài học kinh nghiệm và chú trọng các hoạt động như:
-Truyền thông kiến thức đến người dân thông qua các tài liệu, tranh ảnh, lịch để bàn, tờ rơi, chiếu Video ở trường học, loa phát thanh xã, thảo luận nhóm.
-Theo dõi các đối tượng có nguy cơ dễ mắc bệnh và nguy hiểm đến tính mạng như phụ nữ có thai, trẻ em dưới 5 tuổi, các trường hợp hộ gia đình có người đi rừng ngủ rẫy xa dân cư hoặc trạm y tế. Đồng thời thăm viếng liên tục các hộ gia đình, cấp màn, võng và bọc võng cho người dân đi rừng, ngủ rẫy.
-Cấp thuốc tự điều trị (stand-by treatment) cho nhóm đi rừng ngủ rẫy hoặc những hộ gia đình có thời gian ngủ lại nương rẫy trong thời gian dài.
-Tổ chức giao ban hàng tháng giữa Ban quản lý dự án Viện, phòng y tế, cán bộ trạm y tế xã, cán bộ thông tin xã, hội phụ nữ xã, đại diện giáo viên trường tiểu học và y tế thôn bản tại hai xã dự án. Mục đích của việc giao ban là xem y tế thôn bản có những trở ngại, yêy cầu gì, họ đạt được những gì.
-Cấp Video cho lĩnh vực truyền tin, túi y tế thôn bản (medical keeping bag) cho tất cả các y tế thôn, trong đó có đầy đủ thuốc sốt rét, thuốc hổ trợ cứu đau, kẹp nhiệt độ, bông băng, lam máu, que thử nhanh để xác định KSTSR và một số y cụ cần thiết để y tế thôn bản có thể giúp được người dân trong điều kiện như đêm khuya, đường xá đi lại khó khăn mà chưa thể tiếp cận được y tế xã. Đồng thời Dự án cũng đã cấp áo mưa, đèn pin, mẫu truyền thông cho cán bộ y tế thôn bản để họ có thể chuyển tải thông tin phòng chống sốt rét kịp thời đến từng hộ gia đình trong bất kỳ điều kiện thời tiết nào. Viện trưởng-Trưởng ban quản lý dự án cũng đã có những khích lệ cho các cán bộ y tế thôn bản như cấp chứng nhận và phần thưởng cho những người làm việc tốt.
Những tồi tại trong năm đầu thực hiện là khả năng giám sát ca bệnh của y tế cơ sở còn hạn chế nên Ban Quản lý Dự án phải tăng cường hỗ trợ và chỉ đạo bằng cách cầm tay chỉ việc (on job training) cho y tế thôn bản. Khuyến khích những người dân đi rừng ngủ rẫy sử dụng thuốc tự điều trị khi bị mắc sốt rét. Thói quen tìm kiếm dịch vụ y tế (health seeking behavior) và khả năng tiếp cận và với chẩn đoán và điều trị (ability to access malaria diagnosis and treatment) chưa cao.
Để giải quyết vấn đề trên, chúng tôi tiếp tục thực hiện các biện pháp truyền thông dựa trên những thông tin truyền thông cũ, đồng thời thay đổi và áp dụng một số biện pháp truyền thông mới phù hợp với thói quen, tập quán, tôn giáo và niềm tin tín ngưỡng của người dân. Việc giám sát ca bệnh, quản lý các đối tượng có nguy cơ bị sốt rét. Kết hợp với chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể để thực hiện một các có hiệu quả các biện pháp truyền thông. Tiếp tục mở rộng xã hội hóa phòng chống sốt rét.
Trong năm 2007:
Dự án chú trọng việc đa dạng hóa hình thức truyền thông bằng cách tổ chức hội thi PCSR cho các đối tượng đi rừng, ngủ rẫy tại hai xã Khánh Nam và Khánh Trung nhằm đưa kiến thức phòng chống sốt rét lan rộng cho mọi người dân trong xã để bản thân họ có thể nhận thức được tại sao họ bị mắc sốt rét. Thay đổi cách suy nghĩ từ xưa đến nay về bệnh sốt rét, vì người dân đơn thuần chỉ nghĩ rằng bệnh sốt rét là do uống nước độc hoặc do ma quỷ bắt, xem nhẹ việc nằm màn phòng chống muỗi đốt, hoặc khi họ bị mắc sốt rét ít ra họ cũng phải nhờ đến y tế thôn bản, y tế xã hoặc tìm kiếm đế một cơ sở y tế nào đó để làm xét nghiệm và cấp thuốc điều trị sốt rét, không còn có thói quen cúng bái khi trong gia đình có người bị ốm đau. Công việc hoàn thành các công cụ truyền thông cũng hết sức khó khăn, xong các cán bộ Viện đã xuống tận địa bàn, nắm bắt tất cả các đặc điểm kinh tế, xã hội, thói quen, phong tục tập quán, niềm tin tín ngưỡng và tình hình ăn ở của cộng đồng để từ đó hòan thành các nội dung truyền thông gần gũi nhất, phù hợp nhất cho các đối tượng này.
Thông qua hình thức tuyên truyền bằng câu hỏi mở rộng ý kiến và nhận thức chung về nguy cơ và đối tượng bị mắc sốt rét, người dân hiểu được rằng các đối tượng như đi rừng, ngủ rẫy, nhóm phụ nữ có thai, trẻ em và người già là những nhóm người có nguy cơ rất dễ bị mắc sốt rét, vì họ khó có thể bảo vệ được bản thân. Đồng thời họ phải mang theo màn, võng, bọc võng khi đi vào rừng và ngủ lại trên các nương rẫy hoặc trong các lều trại tạm bợ. Đối với những đối tượng như phụ nữ mang thai, người già và trẻ em thì các thành viên trong gia đình nhắc nhỡ và chăm sóc họ bằng cách ngủ màn và màn tẩm.
Trong tháng 08 năm 2007, Ban quản lý Dự án ADB/WHO của Viện Quy Nhơn đã tổ chức hội thảo “xác định tầm quan trọng và phương án tăng cường chiến lược PCSR cho đồng bào dân tộc thiểu số”. Hội thảo lần này có sự tham gia đóng góp ý kiến xây dựng từ các chuyên gia và nhiều ban ngành nhưvăn phòng UBND huyện Khánh Vĩnh, đội VSPD huyện Khánh Vĩnh, phòng y tế huyện Khánh Vĩnh, phòng giáo dục huyện Khánh Vĩnh và cán bộ y tế, hội phụ nữ và cán bộ thông tin văn hoá thuộc hai xã Khánh Nam và Khánh Trung. Mục đích của tổ chức hội thảo nhằm đánh giá lại các họat động đã thực hiện, bài học kinh nghiệm, những đề xuất trong tương lai. Tập trung giải quyết các vấn đề khó khăn như: việc quản lý các đối tượng đi rừng, ngủ rẫy (kể cả thời gian đi và về), vì khi đi y tế thôn bản sẽ cấp thuốc sốt rét tự uống hoặc nhắc nhỡ mang theo màn để nằm, khi về phải lấy được lam máu để soi tìm ký sinh trùng sốt rét, di biến động dân, giao lưu dân số và biện pháp phòng chống sốt rét có hiệu quả cho nhóm dân tộc Rắcglây. Đặc biệt là kỹ năng truyền thông PCSR đến người dân phải hiệu quả, làm thế nào để nâng cao kiến thức, thái độ và thực hành PCSR có hiệu quả của người dân, cách sử dụng màn tẩm, nằm màn vào ban đêm, mang theo màn và thuốc sốt rét tự uống khi đi vào rừng hoặc ngủ lại ở nhà rẫy của nhóm dân tộc này.
Việc theo dõi các ca bệnh còn yếu, nên Viện đã tổ chức viếng thăm đến người dân theo hướng dẫn mới của Bộ y tế. Tăng cường khả năng xác định ca bệnh bằng kính hiển vi. Cử người đến trạm y tế xã để đào tạo soi lam bằng cách cầm tay chỉ việc. Chia sẻ kinh nghiệm với các chuyên gia, đồng thời báo cáo các hoạt động thường xuyên cho họ. Cập nhật các thông tin lên trang Web của Viện về Dự án ADB/WHO.
Dự kiến sẽ tổ chức một hội thảo vào đầu tháng 11 cho hoạt động bài học kinh nghiệm kết thúc Dự án tại Viện hoặc tại huyện Khánh Vĩnh (dự kiến sẽ mời đại diện tổ chức y tế thế giới, WHO tại Việt Nam, vụ y tế dự phòng, cục y tế, đại diện các Viện sốt rét, sở y tế Khánh Hòa, Trung tâm PCSR tỉnh Khánh Hòa, phòng y tế huyện Khánh Vĩnh, các ban ngành đã tham gia Dự án như y tế xã, cán bộ hội phụ nữ, giáo viên hiệu trưởng, thông tin xã và các y tế thôn bản).
Sau khi kết thúc Dự án tại huyện Khánh Vĩnh, tỉnh Khánh Hòa, Viện đề nghị tiếp tục mở rộng Dự án ra 8 tỉnh đồng bào dân tộc thiểu số có tình hình kinh tế khó khăn và tình hình sốt rét biến động. Việc giải quyết các vấn đề liên quan đến tỷ lệ mắc và tỷ lệ chết do sốt rét tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên là đồng nghĩa với việc giảm thiểu tình hình sốt rét trong cả nước, bởi vì khu vực miền Trung-Tây Nguyên có số mắc sốt rét cao nhất so với cả nước. Hơn 90% sốt rét nằm ở các vùng giao lưu biên giới, vùng buôn bán và khai thác lâm thổ sản, xây dựng các công trình thủy điện, thủy lợi, … hiện vẫn còn nằm ngoài tầm kiểm soát của y tế, chỉ có từ 10-20% mắc sốt rét tại chỗ. Nếu bảo vệ cho người dân tại chỗ sẽ không hiệu quả (phun hóa chất diệt côn trùng, tẩm màn ít hiệu quả đối với những người đi rừng, giao lưu dân số). Truyền thông giáo dục phòng chống sốt rét là một trong những biện pháp hữu hiệu và có thể giải quyết tương đối tốt cho những nhóm người này. Hiện nay có một số biện pháp truyền thông mà người dân vẫn tiếp cận nhưng không thay đổi được nhiều nhận thức của người dân. Tuy nhiên truyền thông giáo dục vẫn còn khó khăn làm sao để người dân chuyển từ kiến thức cập nhật được sang hành vi thực hành phòng chống sốt rét có hiệu quả. Tiếp cận y tế thôn bản, trang bị những vật tư, thuốc tối thiểu cho người dân cũng là vấn đề đáng quan tâm.
Y tế thôn bản rất quan trọng trong việc truyền thông kiến thức cho người dân, thông qua các công cụ truyền thông, đồng thời Viện cũng nắm bắt được thông tin và tình hình sốt rét thông qua các định kỳ giao ban hàng tháng, nắm bắt được số người có màn, sử dụng màn, võng, bọc võng, số người có ký sinh trùng sốt rét, số lượng sử dụng que thử nhanh chẩn đóan ký sinh trùng sốt rét, thuốc sốt rét. Trạm y tế xã đã được tập huấn về chuyên môn, cấp thuốc cho y tế thôn bản, kiểm sóat và hổ trợ cho y tế thôn bản khi có ca bệnh phải xử lý kịp thời. Các điểm kính hiển vi tại xã sẽ trả lời ngay kết quả đối với những ngừời có sốt tại địa phương một cách nhanh nhất.
Từ năm 2005 đến nay, nhóm nghiên cứu đã giúp nhiều cho Dự án thực hiện các họat động có hiệu quả. Vì hiện tại đến nay người dân tại hai xã Khánh Nam và Khánh Trung đã có ý thức cao khi đi rừng, ngủ rẫy, bản thân họ không chỉ mang theo màn tẩm hóa chất, võng và bọc võng để ngủ lại qua đêm trên nương rẫy hoặc các lều trại trên rẫy, mà còn thông tin cho những người thân trong gia đình họ biết được cách tự bảo vệ sốt rét. Thông qua hội thi kiến thức về phòng chống sốt rét, làm cho các đối tượng nguy cơ như người già, phụ nữ mang thai và trẻ em hiểu biết hơn về bệnh sốt rét và cách phòng chống sốt rét. Hiệu quả này tạo hiệu ứng dây chuyền từ người này sang người khác làm cho giá trị phòng chống sốt rét tăng cao. Đồng thời chình quyền, cán bộ xã và y tế thôn bản đều có kiến thức về phòng chống sốt rét để quản lý tốt hơn, y tế huyện, xã và y tế thôn bản có sự kết hợp chặt chẽ hơn. Hiện nay người dânít bị mắc sốt rét hơn khi đi rừng, ngủ rẫy hoặc khi họ bị mắc sốt rét sẽ đến trạm y tế để được cấp thuốc, xét nghiệm và điều trị.
Ở các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông, nếu có đầu tư hổ trợ thì người dân sẽ duy trì được những thành quả phòng chống sốt rét, nếu không thì trong một thời gian họ sẽ bị lãng quên đi những gì mà họ đã cập nhật được. Thông qua các hội thảo, nhiều ý kiến đã đề nghị nên duy trì Dự án, đồng thời Viện cũng đã kết hợp với TS. Mary Carol Beaver và TS. Xia Gang xây dựng đề cương nghiên cứu, đề nghị Dự án ADB/WHO mở rộng thêm Dự án cho các tỉnh có tình hình sốt rét chưa ổn định.
Với nguồn kinh phí thực hiện Dự án phòng chống sốt rét cho người dân tộc thiểu số tại hai xã Khánh Nam và Khánh Trung huyện Khánh Vĩnh tỉnh Khánh Hòa còn quá hạn hẹp, xong hiệu quả của nó đem lại rất cao, không chỉ cho những cộng đồng tại chỗ mà còn có thể áp dụng cho những vùng nào có các đặc điểm xã hội, điều kiện kinh tế, thói quen, tập quán và tín ngưỡng tôn giáo như cộng đồng người dân tộc Rắc Glây.