Nguyen Nam T…, XNV Trung tâm y tế TX H.L., DT: 0914501…
Hỏi: Thưa các bác sĩ và kỹ sư xét nghiệm của Viện Sốt rét Quy Nhơn, cho em hỏi gần đây em thấy tình hình nhiễm giun sán trong miền tây nơi em sinh sống dượng tính rất nhiều nhưng họ thường là những người khỏe mạnh không thấy biểu hiện gì quan trọng, nhưng khi đi lên sài gòn xét nghiệm thì thấy dương tính nhiểu, phòng khám tư nhân của em cũng gặp xét nghiệm như thế. Em có tìm hiểu và tình cờ gặp một bài viết của Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang cho biết có khoảng 14 triệu chứng hay gặp ở người nhiễm giun sán, em không biết đó là gì, xin các bác sĩ cho em biết rõ hơn để áp dụng vào nghề nghiệp của em. Em chan thanh cam on!
Trả lời: bạn xem thêm phần trả lời trong trang:
http://www.impe-qn.org.vn/impe-qn/vn/portal/InfoPreview.jsp?ID=5321
Lê Thi Tuyet L. lell68@yahoo.com.fr, APTA Medcome
Hỏi: Trong một bài viết của trang tin website của Viện gần đây có đề cập là hiện tượng ẩn mình trong lách và giai đoạn ngủ của P. falciparum trong máu và các tế bào hình cây, khiến cho nhiều ca bệnh hiểu lầm thất bại hoặc thậm chí kháng thuốc trên lâm sàng. Tôi muốn biết thực hư và cơ sở khoa học của vấn đề này vì từ lâu tôi chỉ nghe nói đến thể ngủ là P. vivax và P. ovale mà thôi, chứ làm sao P. falciaprum lại có giai đoạn ngủ?. Xin chân thành cảm on nếu được trả lời sớm!
Trả lời:
Trước hết, chúng tôi xin chân thành cảm ơn câu hỏi rất thú vị của bạn, hơn nữa bạn là một người đang gặp phải các ca bệnh thất bại ca bệnh trên lâm sàng, nhưng chúng tôi không biết bạn đã dùng thuốc artesunate lọ hay thuốc ACTs khi điều trị P. falciparum trong những ca bệnh thất bại đó. Như bạn hiểu rõ, vấn đề kháng thuốc do P. falciparum hiện nay đang là thời sự không những trên thế giới mà cả ở Việt Nam cũng vậy (như Bình Phước và Gia Lai với tỷ lệ tồn tạ ký sinh tùng ngày D3 rất cao), dẫn đến nghi ngại trong kháng thuốc đối với artemisinine và dẫn suất trong tương lai không xa. Liên quan đến câu hỏi thú vị của anh chị, chúng tôi cũng là những người đang trực tiếp thực hiện các nghiên cứu kháng thuốc và rất tò mò về khía cạnh này, có lẽ nó sẽ rất có ích trong bổ sung dữ liệu và cơ sở khoa học để nhận định kháng thuốc sau này chặt chẽ hơn. Chúng tôi xin trả lời như sau:
Sự tồn tại KSTSR trong quá trình điều trị thuốc artemisinine liên quan đến tế bào hình cây trong lách. Nghiên cứu đó đến từ Viện nghiên cứu y khoa Úc (QIMR_Queensland Institute of Medical Research) đã mở ra một hướng mới để phát triển các thuốc và vaccine mới cho sốt rét. Nhà nghiên cứu của QTHA là tiến sĩ Michelle Wykes và nhóm của cô ta từ QIMR vừa ấn bản một thử nghiệm mới cho thấy các ký sinh trùng sốt rét có thể sống sót trong một loại tế bào bạch cầu ở trong lách. Về kinh điển, người ta tin rằng sự phát triển KSTSR trong cơ thể chỉ giới hạn trong gan và các tế bào hồng cầu. Tiến sĩ Wykes thực hiện nghiên cứu này qua nhiều năm qua, cung cấp một hướng mới trong cách suy nghĩ về KSTSR. Hướng này mở ra một tiếp cận mới tổng thể để phát triển các đích tác dụng của thuốc và vaccine khi nhiễm trùng tại lách (theo tạp chí Media Releases (Nov 23, 2011) cho biết một đột phá trong nghiên cứu sốt rét đang quan tâm đến khía cạnh các tế bào miễn dịch cơ thể.
"Nghiên cứu của chúng tôi đã khám phá ra làm làm thế nào các tế bào bạch cầu gọi là các tế bào hình cây, rối loạn chức năng và che chở cho KSTSR khỏi bị các cơn miễn dịch cơ thể. "Các tế bào hình cây thường có chức năng giống như một lực lượng quân đội, cho phép các tế bào miễn dịch chống lại nhiễm trùng” – tiến sĩ Wykes cho biết.
"Hệ thống thường làm việc một cách tích cực. Song, vấn đề với sốt rét thì bệnh tìm ra một hướng đi mới để ngăn chặn các tế bào hình cây khỏi các công việc của chúng, nghĩa là bệnh ra khỏi (over-rides) các đáp ứng miễn dịch của chúng ta. Và do vậy, người ta bị bệnh. TS Wykes nhận giải thưởng 300,000 USD do Queensland Government Smart State fellowship vào năm 2010 để hỗ trợ cho nghiên cứu này của bà ta. "Tài trợ này có thể giúp cho tôi tiến triển thêm trong nghiên cứuvà không có nó chúng tôi khó có thể thực hiện các thử nghiệm như thế mà đây lại là bước quan trọng trong chống lại vấn đề sốt rét toàn cầu”. TS. Wykes cho biết.
Kết quả thử nghiệm này được ấn bản trên tạp chí khoa hoc danh tiếng Proceedings of the National Academy of Sciences của Mỹ. Sốt rét đã ảnh hưởng đến 200 triệu người trên toàn thế giới, gây gần 800.000 cái chết mỗi năm, hầu hết trong số đó là trẻ em dưới 5 tuổi. Tổ chức Y tế thế giới (WHO) trình bày cho thấy hầu hết cái chết ở châu Phi, nơi mà các trẻ chết cứ mỗi 45 giây và chiếm 20% số ca tử vong trẻ em tổng thể. Australia không có miễn dịch khoảng 600 ca được báo cáo hàng năm, hầu hết họ đi du lịch đến các quốc gia lưu hành có sốt rét, với người Queensland chiếm gần 1/3 con số đó.
Nhiễm sốt rét năm nay đã được báo cáo tại Torres Strait. Sự thay đổi thời tiết có thể là tiềm năng gây nên tình trạng thúc đẩy lan rộng bệnh sốt rét do muỗi truyền tại khu vực nhiệt đới Queensland. Viện QIMR là một trong những viện nghiên cứu y khoa thành công nhất và lớn nhất với các nàhà nghiên cứu điều tra về mặt di truyền và nguyên nhân môi trường với hơn 40 bệnh cũng như các công cụ chẩn đoán mới, liệu pháp điều trị mới và chiến lược dự phòng mới.
QIMR là một đối tác với Queensland Tropical Health Alliance (QTHA) với James Cook University, Queensland University of Technology and Griffith University, với mục đích cải thiện phát hiện, chẩn đoán và điều trị các bệnh nhiệt đới. Chính phủ tại Queensland đóng góp hơn 19 triệu USD để xây dựng cơ sở hạ tầng để mở rộng nghiên cứu các bệnh nhiệt đới và xây dựng QTHA như một mạng lưới nghiên cứu y khoa và sức khỏe nhiệt đới ngang tầm quốc tế.
Tái phát ký sinh trùng ngủ quên “Dormant parasite recrudescence »
Các nghiên cứu trước đây do tác giả Teuscher và cộng sự cho thấy rằng điều trị bằng AS, P. falciparum thể nhẫn trở nên ngủ và khoảng 0.001–1.313% phục hồi để phát triển lại lệ thuộc vào strain. Trong các nghiên cứu đó, ký sinh trùng phục hồi từ « ngủ quên » tìm thấy có liên quan đến lệ thuộc liều (dose-dependent). Để xác định nếu hiện tượng tương tự này xảy ra trên in vivo, sự phục hồi các ký sinh trùng ngủ (thời gian đạt > 5.0% ký sinh trùng) được đánh giá sử dụng loài P. v. vinckei. Các kết quả cho thấy rằng các thể ngủ, tương tự như những gì tìm thấy trên in vitro, trên các con chuột điều trị và số ngày hồi phục có liên quan “dương tính” với số lượng thể ký sinh trùng ngủ trên các con chuột nguyên vẹn; Tuy nhiên, điều này có khác biệt so với các con chuột không còn lách. Dựa vào các thiết kế thử nghiệm, các nhà khoa học thiết kế thực nghiệm không thể tính toán tỷ lệ hồi phục được. Tuy nhiên có thể ước phỏng vì nhóm bị tiêm với 40 ký sinh trùng không thể hồi phục, tỷ lệ hồi phục là 1/400 ký sinh trùng ngủ (0.25%) so với những nghiên cứu trước đây.
Vai trò của lách trong vấn đề tồn tại ký sinh lâu dài ?
Khoảng 5% lượng máu lưu thông tuần hoàn khắp cơ thể đi đến lách và trung bình số hồng cầu đi qua lách mỗi 20 phút. Khi bệnh nhân nhiễm sốt rét, sự phát triển của các ký sinh trùng trong hồng cầu dẫn đến cấu trúc, tổ chức lại (remodeling) cả hồng cầu nhiễm và hồng cầu không nhiễm. Lách sẽ lọc các hồng cầu thay đổi bản chất cấu trúc này nên đã làm tăng thiếu máu. Giảm lượng ký sinh trùng cao có liên quan đến nhiễm trùng sốt rét nặng. Các nghiên cứu bởi Newton và cộng sự cho biết các lỗ hỗng hoặc hõm lách (splenic-pitting) này có liên quantrong phần lớn quá trình làm sạch ký sinh trùng đã được nhìn thấy sau khi điều trị bằng artemisinin.
Những cá nhân không có lách đang sống trong vùng lưu hành P. falciparum, biểu hiện sốt thường hơn, mật độ KSTSR cao hơn và thời gian làm sạch KSTSR dài hơn sau khi điều trị thuốc sốt rét như artemisinin. Các nghiên cứu sử dụng chuột nhiễm P. berghei, thấy các động vật bị cắt lách hoàn toàn (full splenectomies) có mật độ KSTSR gấp đôi tìm thấy khi so sánh trên các con chuột cắt lách bán phần và còn nguyên lách. Ngoài ra, khi Moore và cộng sự đánh giá làm sạch ký sinh trùng trên các con chuột bị không có lách và lách còn nguyên bị sốt rét điều trị bằng DHA, họ đã tìm thấy khả năng làm sạch ký sinh trùng giảm trên nhóm chuột mất lách (asplenic population). Tương tự như vậy, nghiên cứu này cũng chỉ ra rằng ký sinh trùng ngủ đòi hỏi thời gian ít hơn để hồi phục khi tiêm vào các con chuột bị cắt lách và tất cả chuột sống sót không lách đó thấp hơn nhóm chứng nguyên vẹn lách. Các dữ liệu này xác định vai trò của lách trong việc làm sạch KSTSR sau khi điều trị, tuy nhiên cũng chỉ ra khả năng xâm nhập vào các hố lách của các thể nhẫn ngủ. Các nghiên cứu tiếp theo về thể nhẫn ngủ và làm sạch của lách được đảm bảo.
Nói tóm lại, mô tả lần đầu tiên về sự hiện diện của các thể vô tính ngủ trong nghiên cứu in vivo sau điều trị thuốc artesunate (AS). Người ta chưa rõ có hay không hiện tượng này liệu có chỉ xảy ra đối với AS hay không? Do đó, các nghiên cứu tương lai nên điều tra xem các dẫn chất artemisinin và các sản phẩm khác của thuốc sốt rét có tạo ra các thể ngủ này hay không và nếu có tái phát (recrudescence) phải được nghiên cứu. Ngoài ra, vì sự khác biệt trong đáp ứng giữa các chủng gây chết và không gây chết (non-lethal and lethal strains), các nghiên cứu tiếp theo nên chú ý so sánh só lượng ký sinh trùng ngủ mà được sinh ra bởi chủng gây chết và không gây chết. Điều này sẽ giúp xác định nếu có mối liên quan giữa các ký sinh trùng ngủ, độ trầm trọng của bệnh và hiệu quả điều trị. Nếu có sự khác biệt, có lẽ một sự thay đổi đối với các chiến lược khuyến cáo điều trị nhằm đúng dựa trên loại nhiễm có mặt. Cuối cùng, các nghiên cứu điều tra về cơ chế đằng sau thể ngủ này cũng nên tiến hành làm rõ. Các thử nghiệm nhu cầu dùng thuốc ACTs để giảm khả năng tái phát sớm sau khi dùng liệu pháp đơn trị liệu artemisinin và cung cấp các thông tin có giá trị về liều dùng tối ưu trong điều trị sốt rét mà có thể chứng minh hữu ích trong việc ngăn ngừa sự tái phát KSTSR này.
Nghiên cứu cho thấy KSTSR “ngủ” trong tế bào hồng cầu có thể góp phần thất bại điều trị đối với liệu pháp Artemisinine
Các nhà nghiên cứu của trường đại học South Florida (USF) của Học viện y tế công cộng đã cho thấy lần đầu tiên trong một mô hình gặm nhấm có thể ký sinh trùng sốt rét sớm nhất có thể nằm ngủ lại trong các tế bào hồng cầu và thức dậy hoặc hồi phục sau khi điều trị bằng thuốc sốt rét loại artesunate. Nghiên cứu này đã đăng tải trên tạp chí PLoS onE, chỉ ra rằng hiện tượng ngủ của giai đoạn sớm này (early-stage dormancy phenomenon) góp phần vào sự thất bại của thuốc artesunate đơn thuần, hoặc thậm chí phối hợp với các thuốc khác. TS. Alexis LaCrue, trợ lý nghiên cứu tại đơn vị USF Department of Global Health, dẫn đầu nhóm nghiên cứu được tài trợ bởi Viện Nghiên cứu về dị ứng và bệnh truyền nhiễm quốc gia National Institute of Allergy and Infectious Diseases (NIAID).
Sự xuất hiện dòng ký sinh trùng kháng thuốc artesunate dọc theo biên giới Thái Lan-Cambodia có thể là vấn đề nghiêm trọng, làm suy yếu các nỗ lực phòng chống sốt rét toàn cầu, theo WHO cho biết. “một vấn đề y tế công cộng khẩn cấp đòi hỏi phải hiểu biết tại sao kháng thuốc sốt rét xảy ra và cơ bản nó là gì, để mà chúng ta có thể giúp làm dừng lan rộng chúng” nhà nghiên cứu chính Dennis Kyle cho biết như vậy. “Nghiên cứu của chúng tôi có thể quy kết giống như một giai đoạn ngủ trong in vivo trên mô hình sốt rét gặm nhấm đã được thử nghiệm trước đây” - Kyle nói.“nghiên cứu này chỉ ra việc ngủ có liên quan đến giai đoạn sớm nhất của phát triển ký sinh trùng trong hồng cầu. Nó có thể là một cơ thế mới để cho KSTSR làm thế nào tránh được sự “phê thuốc” artemisinin. Khi các con chuột nhiễm KSTSR của gặm nhấm được điều trị bằng artesunate, ký sinh trùng ngủ (dormant parasites) hiện diện trong hồng cầu của chúng đến 24 giờ sau khi điều trị. Các nhà nghiên cứu cũng tìm thấy một mối liên quan dương tính hay chặt chẽ giữa số lượng các ký sinh trùng ngủ hiện diện và khi nhiễm sốt rét tái xuất hiện trên chuột.
Nhiều nghiên cứu cần thêm để giải thích cơ chế đằng sau giai đoạn sớm ngủ và sự đóng góp của chúng vào thất bại điều trị. “giờ đây chúng ta có một thử nghiệm trên mô hình động vật để làm thế nào mà ký sinh trùng ngủ và làm thế nào chúng hồi phục” – tiến sĩ Kyle nói,chúng ta có thể thay đổi liều và đánh giá các thuốc đi kèm với thuốc artemisinin để giết các ký sinh trùng ngủ tốt hơn”.
Một lần nữa xin cảm ơn bạn đã cho chúng tôi nhìn lại nhiều thông tin khá thú vị về khía cạnh kháng thuốc trên thế giới và Việt Nam. Thân chúc anh chị khỏe!
Lương Đinh Thang- thangluong70@yahoo.com.vn - Phạm Viết Chánh, HCM- 0908….
Hỏi: Gần đây anh trai tôi có đi xét nghiệm máu tổng quát tại Viện Pasteur TP.HCM thì kết quả ghi Toxocara canis dương Tính (1/1600), các loại giun sán khác đều âm tính. Xin hỏi kết quả như vậy thì đã phải là dương tính chưa và anh tôi có cần thiết phải điều trị không? Nếu để lâu ngày thì có gì nguy hiểm không? Trước đây gia đình tôi có nuôi chó và rất nhiều mèo trong thời gian dài, mọi nguoif trong nhà tôi hay tắm cho chó và đùa với chó, mèo. Xin được phúc đáp và chân thành cám ơn.
Trả lời: Chào bạn, chúng tôi rất cảm ơn vì bạn đã tín nhiệm đặt câu hỏi cho chúng tôi phúc đáp. Với kết quả của bạn là dương tính với giun đũa chó mèo Toxocara canis ngưỡng hiệu giá kháng thể 1/1600, song rất tiếc bạn không báo cho chúng tôi biết bạn có biểu hiện dấu hiệu hay triệu chứng gì trên thân thể hay không? Ngoài xét nghiệm ELISA (+) với giun đũa chó mèo ra, bạn có làm thêm công thức máu toàn phần và đặc biệt là trị số của bạch cấu ái toan (eosin) có tăngcao hay không, ...và một số vấn đề khác nữa. Điều đó có nghĩa là chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng dù kết quả của bạn có dương tính, nhưng các triệu chứng khác như mệt mỏi, ngứa, nổi mẩn, khó thở, khò khè, đau bụng, gan lớn, chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, khó ngủ, rối loạn hành vi, viêm phổi, viêm phế quản, viêm hạch, nhức đầu, đau chi, sốt, tăng bạch cầu eosin, tăng nồng độ IgE, tăng hiệu giá kháng thể của ELISA T. canis, không có hoặc chưa có thì bạn cũng không nên điều trị vì hiện tại thực tế tỷ lệ dương tính với giun đũa chó mèo rất cao trong cộng đồng và ngay cả nhóm người có biểu hiện ngứa (bất luận do nguyên nhân gì). Chẳng lẽ, mọi người đó đều nhiễm giun đũa chó mèo hết hay sao phải không bạn. và thực tế đã cho thấy khi bệnh nhân có xét nghiệm giun đũa chó dương tính thì cứ thế điều trị, điều này dẫn đến lạm dụng thuốc và nguy hiểm đến tính mạng bênh nhân (vì đó không phải là thuốc bổ).
Cần lưu ý với bạn rằng, hiện nay tỷ lệ xét nghiệm dương tính với bệnh giun đũa chó Toxocara canis khá cao, nhiều báo cáo cho biết tỷ lệ dương tính lên đến 52%, hoặc theo số liệu thống kê không đầy đủ của chúng tôi qua các năm là 42-60% dương tính với hiệu giá từ 1/800à1/12.800, dù dương tính như thế song số ca có biểu hiện lâm sàng điển hình giun đũa chó trong số (+) ấy lại rất ít, chỉ chiếm 1/10. Điều đó có nghía xét nghiệm này không đặc hiệu và nếu chỉ có duy nhất một bằng chứng như vậy không đủ để chẩn đoán xác định giun đũa chó; thứ 2 hiện tại các kit chẩn đoán tại Việt Nam thì kháng nguyên tinh chiết từ thân sán chứ hiếm khi kháng nguyên tiết (Excrectory/ Secretory antigen), do đó khả năng dương tính chéo với một số khác là hiện tượng khó tránh khỏi và dễ làm người bệnh thì hoang mang, trong khi thầy thuốc cứ thế mà kê đơn điều trị với các thuốc chống giun sán thông thường không cần thiết mà có thể gây độc tính trường diễn trên bệnh nhân, đặc biệt các bệnh nhân có suy giảm chức năng gan thận lại càng nguy hiểm hơn. Để giúp bạn hiểu rõ hơn về biểu hiện bệnh giun đũa chó, chúng tôi xin chuyển đến bạn 2 hội chứng hay gặp và ắt có khi chúng ta nghĩ đến giun đũa chó Toxocara canis:
Bệnh giun đũa chó (Toxocariasis) là một thuật ngữ lâm sàng để chỉ tình trạng nhiễm ký sinh trùng ở người hoặc do T. canis hoặc (hiếm khi) nhiễm loại T. cati. Vì trứng của Toxocara được bài tiết ra từ chó hoặc mèo, trên các bải cỏ công viên, sân chơi trong vườn hoặc tại các chậu cát đặt ở các vùng đô thị hoặc thị trấn-nơi mà tình trạng vệ sinh kém diễn ra-ở đó có thể là trứng nhiễm rất thích hợp. Vì lý do này, bệnh giun đũa chó thường gặp nhất ở trẻ em tuổi từ 1-5, đặc biệt những người có thói quen ăn đất cát. Một số ca bệnh giun đũa chó do ăn thực phẩm ở người trưởng thành đã được báo cáo trong vùng có thói quen ăn gan sống.
Hội chứng ấu trùng di chuyển trong tạng (VLM_Visceral Larvae Migrans)
Hội chứng ấu trùng di chuyển trong mắt (OLM_Ocular Larva Migrans):
Các hội chứng trên thường được xác định và biểu hiện do các cơ quan trong cơ thể bị ảnh hưởng do ấu trùng non di chuyển: Hội chứng VLM trong một loạt ca bệnh ở trẻ em có biểu hiện triệu chứng sốt, gan lớn, thâm nhiễm ở phổi, tăng gammaglobulin trong máu và tăng bạch cầu eosin trong máu ngoại vi. Trên các bệnh nhân có hội chứng VLM, gan là một tạng sống còn bị ảnh hưởng nặng nhất. Khi ấu trùng tiến đến gan, đánh giá tuần hoàn tĩnh mạch cửa (sau khi ấu trùng đi xuyên qua thành ruột và đi vào vi mạch máu), chúng di chuyển qua gan và gây ra các vết chạy trong mô gây rối loạn tổ chức, đặc biệt gây tổn thương dạng hoại tử, phù mô kẻ, thâm nhiễm bạch cầu eosin và xuất huyết, dẫn đến phản ứng viêm tạo u hạt. Phản ứng viêm có thể dẫn đến một bệnh lý khác là viêm gan u hạt (granulomatous hepatitis).
Các dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng được ghi nhận trên các bệnh nhân bị bệnh giun đũa chó là hậu quả trực tiếp của tổn thương do ấu trùng di chuyển và gây ra nhiều phản ứng viêm bên trong cơ thể vật chủ. Mô nhạy cảm nhất với sự xâm nhập của ấu trùng là gan, phổi, mắt và hệ thần kinh trung ương. Phản ứng viêm ở đây đặc trưng bởi tình trạng hình thành u hạt tăng bạch cầu eosin (eosinophilic granulomas). Các dấu hiệu và triệu chứng hay gặp trên bệnh nhân nhiễm giun đũa chó bao gồm sốt, đau bụng, gan lớn, lách lớn và đường hô hấp dưới à ho, khó thở, co thắt phế quản. Các triệu chứng ít gặp hơn là viêm cơ tim, viêm thận và hội chứng trên hệ thần kinh trung ương à động kinh, co giật, triệu chứng tâm thần kinh và bệnh lý não cũng đã được mô tả. Ngoài ra, nhiều hội chứng và triệu chứng khó phát hiện hoặc rất mơ hồ gồm có hen phế quản, rối loạn chức năng ruột, mày đay, sẩn ngứa (prurigo) liên đới đến quá trình phơi nhiễm mạn tính với hội chứng ấu trùng di chuyển.
Đánh giá về các xét nghiệm trên các bệnh nhân bị giun đũa chó hầu như luôn biểu hiện một thông số tăng bạch cầu với ưu thế tăng bạch cầu eosin (phân số bạch cầu eosin là 1.7-8.5). Các xét nghiệm khác có thể cho biết tăng gammaglobulin và tăng hiệu giá của anti-A hoặc anti-B isohemagglutinin. U hạt hoặc abces có thể xuất hiện trên phim chụp CT scan bụng là những hình ảnh nốt kém mịn hay giảm âm đi kèm với các tổn thương viêm phản ứng khác.
Bệnh giun đũa chó tổn thương tại gan có hình ảnh trên phim chụp CT không đặc hiệu, nó có thể làm cho thầy thuốc chẩn đoán nhầm với một số bệnh lý khác. Chẩn đoán phân biệt với nhiều nodule tỷ trọng thấp ở gan cũng bao gồm cả nhiều microabsces, các bệnh lý sinh u hạt khác, bệnh lý ung thư gan nguyên phát hoặc các hình ảnh di căn từ các ung thư khác vào gan. Khi các hình ảnh tổn thương này trên chẩn đoán hình ảnh kèm theo tăng bạch cầu eosin ở phiến đồ máu ngoại vi, bệnh giun đũa chó ở gan phải xem xét và cân nhắc và đề xuất thêm các xét nghiệm huyết thanh học và giải phẩu bệnh học để hướng đến chẩn đoán thêm. Hai bệnh lý giun sán khác có thể gây tổn thương có hình ảnh tương tự trên CT là bệnh sán lá gan lớn và giun capillariasis.
Nói tóm lại, với câu hỏi của bạn chúng tôi khuyên khi đầy đủ các biểu hiện triệu chứng trên lâm sàng như chúng tôi đã mô tả với 2 hội chứng như trên và có các chỉ số cận lâm sàng (xét nghiệm) chỉ điểm thì khi đó bạn mới đi điều trị bạn nhé. Đừng đánh liều điều trị cho “an tâm”, xem chứng tốt đâu không thấy mà lại tốn tiền, cũng như ảnh hưởng đến gan vì thuốc điều trị giun đũa chó dùng dài ngày và liều cao nên độc tính khó lường hết.
Thân chúc bạn khỏe và thành đạt!
Võ Dieu Linh- loveyoumore215@gmail.com.au, chung cư Thanh Đa lô A2 nhà 108- 0903940….
Hỏi: Má em bị bệnh SLGL, kết quả XN tại BVĐH Y dược TP.HCM, má em đã uống 2 viên triclabendazole (EGATEN) được 15 ngày nhưng hiện nay tình trạng sức khỏe càng lúc càng yếu không ăn đươc, mỗi ngày chỉ ăn nửa chén cháo loãng, không ngủ được, ho nhiều, hay nôn ói, rất mệt lúc nào cũng rên mệt quá, khi nghe mùi thức ăn như dầu mỡ hay thịt cá là má em buồn nôn, vậy má em có phải nhập viện không và khả năng sau khi uống thuốc này khoảng bao lậu triệu chứng này mới hết, trong lúc này nên cho má em ăn và uống gì và theo chế độ như thế nào? Hay có khả năng má em còn bệnh nào khác về gan mà không biết, mong bác sĩ hồi âm gấp dùm em, chân thành cám ơn bác sĩ nhiều!
Trả lời: Sán lá gan lớn được điều trị bằng thuốc Triclabendazole là đặc hiệu và hiệu quả rồi, songđã 15 ngày qua kể từ khi điều trị, bệnh nhân vẫn còn mệt, ăn uống kém, ho và nghe mùi dầu mở khó chịu, buồn nôn và nôn. Theo kinh nghiệm của chúng tôi đã trực tiếp điều trị trên 10.000 ca bệnh sán lá gan lớn thì 95% bệnh nhân mắc sán lá gan có ổ abces gan nhưng quá trình hủy hoại tế bào và dẫn đến suy gan là cực kỳ hiếm, thường sau khi dùng thuốc trong 1-5 ngày đầu tiên, bệnh nhân có 3 biểu hiện sau: [1] có thể sốt nhẹ, thỉnh thoảng sốt run, ớn lạnh; [2] bệnh nhân có thể đau tức vùng thượng vị (chấn thủy), cơn đau này thường kéo dài 45 phút đến 2 giờ đồng hồ là chấm dứt; [3] bệnh nhân có thể đau bụng nhẹ và có thể đại tiện phân sệt, không thành khuôn, đặc biệt sau điều trị 1-2 ngày, bệnh nhân hết đau nhanh chóng và ăn uống lại rất khỏe và dường như bình thường; sau 1-3-6-9 tháng bệnh nhân tiếp tục tiến triển đến lành thưong tổn và hóa sẹo các ổ abces và xóa dần sau đó 1 năm.
Trường hợp của mẹ bạn, có thể có bệnh lý đi kèm, có thể về hô hấp hoặc một bệnh lý gan mật khác. Để biết rõ hơn, chúng tôi khuyên bạn nên đưa mẹ đến cơ sở y tế để khám và kiểm tra tổng quát xem có bệnh kèm hay không, để mà điều trị ổn định. Lần nữa xin kính chúc mẹ bạn và gia đình khỏe mạnh, mẹ bạn sớm bình phục.
Văn Chí Truyền, Nghĩa Lộ, TP. Quảng Ngãi, Letruyen1166@hotmail.com,
Hỏi: Khoảng 2 tuàn nay em bị đau bụng và tức vùng gan rất nhiều, em có đi siêu âm bụng tổng quát, bác sĩ siêu âm nghi chẩn đoán em bị nang sán chó, em không biết bệnh này ra sao vì em chỉ nghe Quảng Ngãi quê em chỉ có sán lá gan, giun đũa chó, giun lươn nay lại thêm nang sán chó không biết thế nào. Xin quý bác sĩ cho em biết về bệnh nang sán chó là bệnh gì, biểu hiện bệnh ra sao, xét nghiệm ở đâu tìm ra và điều trị uống thuốc ra sao?
Trả lời: Liên quan đến câu hỏi của bạn, chúng tôi mong bạn hãy bình tĩnh và các bệnh giun sán hiện nay đều có thuốc điều trị đặc hiệu, bệnh có nang sán gây ra do một loại sán nhỏ, phẳng, sán này có liên quan đến loài ký sinhtrùng Echinococcus granulosus. Người bị nhiễm do tiếp xúc với các phân động vật bị bệnh (đặc biệt phân chó), sán sẽ hình thành nên các nang sán gọi là hydatid cysts trong mô. Các nang sán lớn gây tổn thương các cơ quannhư gan và phổi. Bệnh do loại ký sinh trùng Echinococcus spp, nên nó còn có nhiều tên gọi khác là hydatid disease, hydatid cyst, unilocular hydatid disease hoặc cystic echinococcosis. Hiện có 4 loài sán dây được biết gây ra bệnh nang sán này, song trong số đó có 3 loại gây bệnh quan trọng ở người:
-Echinococcus granulosus, gây bệnh nang sán, phổ biến và hay gặp nhất;
-Echinococcus multilocularis, gây bệnh tại phế nang, phổi, hiếm gặp nhưng “độc lực” nhất;
-Echinococcus vogeli, gây bệnh lý đa nang, rất hiếm gặp trên lâm sàng.
Đây được xem là một bệnh ký sinh trùng có thể gây tử vong, ảnh hưởng lên rất nhiều động vật, bao gồm động vật hoang dại, gia súc, vật nuôi và cả con người. Bệnh do nhiễm ấu trùng sán dải chó Echinococcus, đáng chú ý nhất là các loài E. granulosus, E. multilocularis, E. vogeli và E. oligarthrus. Khi nhiễm bệnh gây ra nhiều nang lớn nhỏ khác nhau bên trong các vật chủ trung gian. Sự lan truyền là từ các trứng tìm thấy trong phân của chó và bị nuốt tình cờ bởi người, nhất là trẻ em. Ấu trùng phát triển qua nhiều năm để hình thành các nang chứa đầy dịch trong các cơ quan cơ thể, đặc biệt là tạng gan. Các nang này có thể phát triển tăng kích thước lên đáng kể và chứa nhiều dịch kèm với số lượng scolices sán nhiễm rất nhiều.
Biểu hiện bệnh: triệu chứng bệnh tăng lên khi các nang này phát triển lớn hơn và bắt đầu tiêu hủy dần dần hoặc làm tăng áp lực các mạch máu cũng như tại các cơ quan. Nhiều nang lớn cũng có thể gây sốc nếu chúng đồng loạt vỡ ra. Trên lâm sàng điển hình là chúng hình thành các nang nước trong gan, phổi, thận, lách của các vật chủ trung gian. Khảo sát siêu âm và CT scan cho thấy các nang thường lớn kèm với dạng như bông tuyết như muón bong ra thành mảnh nhỏ (thường gọi là "hydatid sand"); điều này chỉ ra giai đoạn đầu của nhiễm bệnh. Trong giai đoạn thứ 2, hình ảnh cho thấy là nhiều “nang con” (daughter cysts). Các nang sán trong gan này có thể chẩn đoán chính xác bằng thử nghiệm huyết thanh học (phản ứng Weinberg-đặc hiệu cho phản ứng cố định bổ thể). Tuy nhiên, phản ứng Weinberg có thể cho kết quả âm tính giả,trong một loạt xét nghiệm mẫu máu cho thấy có đến 38% số ca cho kết quả âm tính giả. Những nghiên cứu mới gần đây như ELISA có thể có độ nhạy và độ đặc hiệu hơn. Xét nghiệm CTM cho thấy tỷ lệ bạch cầu ái toan tăng không phải là một chỉ điểm của bệnh nang sán loại này trừ khi chúng vỡ ra. Thực tế, thường không thấy sự thay đổi nào về các thông số sinh hóa máu.
Bệnh nang sán ở gan hoặc phổi, nói chung thường không có triệu chứng nhưng có thể gây các biến chứng nghiêm trọng nếu chúng vỡ nang ra. Sốc phản vệ toàn thân thường liên quan đến vỡ nang và có thể tiên đoán dương tính bằng phản ứng Casoni. Cũng có nhiều nguy cơ bệnh lan tỏa trong màng phổi hoặc trong phục mạc và nhiễm trùng thứ phát sẽ gây các ổ áp xe tại chỗ. Tình trạng này được coi là bệnh nang sán và đôi khi có thể điều trị thành công bằng phẩu thuật tách bỏ các nang. Ở Bồ Đào Nha, có nhiều kinh nghiệm với phương pháp chọc hút qua da (PAIR_Percutaneous Aspiration).
Nhiễm ký sinh trùng E. multilocularis dẫn đến hình thành cáckhối u ký sinh trùng đặctrong gan, phổi, não và một số cơ quan khác. Đôikhi nhiễm ký sinh trùng ở não có thể dẫn đến các triệu chứng như unão và cần thiết phải loại bỏ bằng phẩu thuật ngoại khoa. Tình trạng này gọi là alveolar hydatid disease có thể dẫn đến tử cong nhiều hơn. Nhiễm ký sinh trùng Echinococcus vogeli, có phạm vi trong các khu vực Trung và Nam Mỹ với bệnh cảnh là các bệnh lý đa nang (polycystic disease). Không giống như các vật chủ trung gian, vật chủ chính thường ít bị tổn thương sau nhiếm. Đôi khi, thiếu một số vitamine và khoáng chất có thểxảy ra cho vật chủ do nhu cầu cần thiết của ký sinh trùng.
Về điều trị, có thể dùng các biện pháp dưới đây điều trị nang sán:
-Nội khoa với Metronidazole 400-600 mg, Albendazole, Mebendazole để ngăn tái phát;
-Ngoại khoa có thể áp dụng trong một số trường hợp, có thể làm phương pháp mở thông nang (marsupialization), cố định mạc nối (omentopexy), loại bỏ màng nang nước
-Trước khi phẩu thuật nên dùng Praziquantel, liều 20 mg/kg mỗi 12 giờ trong 2 tuần.;
-Phẩu thuật thường điều trị lựa chọn trong các trường hợp nhiễm Echinococcus granulosus, đôi khi phối hợp với liều cao Albendazole. Dẫn lưu qua da dưới hướng dẫn của siêu âm là biện pháp có hiệu quả trong các điều trị nang ở tạng gan. Praziquantel dùng theo sau đó là liệu pháp Albendazole liều cao kéo dài trong trường hợp các nang bị rò rỉ và vở ra ngoài do chấn thương hoặc sau phẩu thuật.
Với phần trả lời toàn diện trên, chúng tôi hy vọng rằng sẽ làm thỏa mãn cau hỏi của bạn nhé!
Võ Kim Huyền, kimhuyennimdec12@yahoo......
Hỏi: Em là một bác sĩ điều trị tại Trung tâm chẩn đoán y khoa phía bắc, cho em hỏi các bác sĩ ở Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn: (1) Tại sao các ổ áp xe nhỏ do amíp có hình ảnh đặc hiệu là hình cổ chai hoặc hình nấm tán? (2) Tại sao giun đũa phân bố rộng hơn giun móc/mỏ? (3) Triệu chứng của tưa lưỡi, viêm âm đạo do nấm Candida spp.?
Trả lời: Câu hỏi của bạn gồm có ba phần, chúng tôi xin phúc đáp như sau:
- Các ổ abces gan do amip (Entamoeba histolytica) tại sao lại có hình ảnh đặc trưng là hình cổ chai hay hình nấm tán. Tất cả hình ảnh tổn thương gan do amip phần lớn có hình ảnh như thế hoặc hình ảnh phân ra làm 2 lớp có dịch và các chất mụn nát do hoại tử trong cùng một tổn thương, hình ảnh thương tổn abces thường có bờ rất rõ và xu hướng tròn hoặc elip. Áp xe gan a mip ở giai đoạn viêm và hoại tử thể hiện thành một khối đặc tăng âm hoặc giảm âm, sang giai đoạn áp xe đã có mủ sẽ thấy một hình hốc rỗng âm, ở giữa có một số tăng âm đậm rải rác (do những mảnh mô hoại tử tạo ra) hoặc 2-3 ổ áp xe rời nhau ở cùng một phân thuỳ hoặc ở nhiều phân thuỳ khác nhau.Kích thước ổ áp xe gan do a mip tương đối lớn thường từ 5 -10cm. Qua thực tiễn lâm sàng cà cận lâm sàng, đặc biệt tiên phong trong chẩn đoán hình ảnh, nhất là siêu âm đã cho thấy các hình ảnh tương đối điển hình như vậy và tùy thuộc từng tác giả họ tổng kết / đúc kết và đưa ra các hình ảnh có tên gọi như vậy để phân biệt với một số hình ảnh khác trong ung thư gan (hình ảnh khối tăng âm, chắc đặc hoặc một số tác giả gọi là sùi súp lơ), nang gan do sán chó (hốc rỗng gần giống u mạch thể hang) hoặc tổn thương gan do sán lá gan lớn (khối giảm âm, hỗn hợp âm trong trường hợp có hoại tử, hoặc tăng âm đi kèm giảm âm trong giai đoạn hồi phục, hoặc giảm âm kèm trống âm có dịch mủ hoặc dịch viêm đi kèm,...).
Cũng xin lưu ý với bạn rằng, không phải lúc nào cũng cho chúng ta một hình ảnh điển hình như bạn biết, vì quá trình điều trị trước đó, hoặc dùng thuốc không đúng trong một thời gian dài, bệnh nền đi kèm, cơ địa và sức đề kháng của cơ thể,...có thể cho các hình ảnh khác nhau. Khi đó, chúng ta cần gián biệt với một số hình ảnh của tổn thương gan do các tác nhân gây bệnh khác (đề cập đến ở trên) vì trong số hơn 15.000 trường hợp đến khám và điều trị bệnh sán lá gan lớn ở Viện Sốt rét KST-CT Quy Nhơn, chúng tôi đã không ít lần nhầm lẫn abces gan do amip và abces gan do sán lá gan và do vi khuẩn,...Những ca như thế, bạn nên chỉ định thêm các phản ứng huyết thanh như phản ứng miễn dịch huỳnh quang với a mip: các chất nhuộm huỳnh quang Flourescein, Isothioxynat đã ra đời kỹ thuật miễn dịch huỳnh quang và được Coobs thực hiện lần đầu tiên năm 1941, phản ứng ngưng kết hồng cầu, phản ứng kết hợp bổ thể, phản ứng Elisa (Enzyme-linked-sorbent-assay).Trong đó phản ứng huỳnh quang với Amip và phản ứng ELISA có với một men thích hợp là hai phản ứng rất có giá trị để chẩn đoán áp xe gan Amip với độ nhạy và tính đặc hiệu cao, phản ứng được coi là dương tính khi hiệu giá ngưng kết > l/160 đối với phản ứng miễn dịch huỳnh quang và >l/200 đối với phản ứng ELISA và kết hợp thêm các triệu chứng lâm sàng:
+ Thể điển hình:
Áp xe gan thế điển hình là thể hay gặp nhất chiếm khoảng 60-70% trường hợp, có 3 triệu chứng chủ yếu hợp thành tam chứng Fontam (sốt, đau hạ sườn phải, gan to).
-Sốt : có thể 39 - 400C, có thể sốt nhẹ 37.5 - 380C. Thường sốt 3 - 4 ngày trước khi đau hạ sườn phải và gan to nhưng cũng có thể xảy ra đồng thời với 2 triệu chứng đó;
-Đau hạ sườn phải và vùng gan : đau mức độ cảm giác tức nặng nhoi nhói từng lúc, đau mức độ nặng, đau khó chịu không dám cử động mạnh. Đau hạ sườn phải xuyên lên vai phải, khi ho đau tăng.Đau triền miên kéo dài suốt ngày đêm;
-Gan to và đau : gan to không nhiều 3-4 cm dưới sườn phải mềm, nhẵn, bờ tù, ấn đau. Làm nghiệm pháp rung gan (+), dấu hiệu Iouddlow (+). Ngoài tam chứng Fontan là chủ yếu có thể gặp một số triệu chứng khác ít gặp hơn
-Rối loạn tiêu hoá : ỉa lỏng hoặc ỉa nhày máu giống lỵ, xảy ra đồng thời với sốt trước hoặc sau sốt vài ba ngày;
-Mệt mỏi, gầy sút nhanh làm cho chẩn đoán nhầm là ung thư gan;
-Có thể có phù nhẹ ở mu chân (cắt nghĩa dấu hiệu này: do nung mủ kéo dài dẫn đến hạ Protein máu gây phù);
-Cổ trướng: Đi đôi với phù hậu quả của suy dinh dưỡng, không có tuần hoàn bàng hệ;
-Tràn dịch màng phổi : thường do áp xe vỡ ở mặt trên gan gần sát cơ hoành gây phản ứng viêm do tiếp cận, do đó tràn dịch không nhiều thuộc loại dịch tiết, dễ nhầm lẫn với các bệnh ở phổi;
-Lách to : rất hiếm gặp, lách to ít l - 2cm dưới bờ sườn trái dễ nhầm với xơ gan khoảng cửa.
+ Thể không điển hình
Biểu hiện theo từng thể lâm sàng:
-Thể không sốt : thật ra hoàn toàn không sốt thì không có mà là sốt rất ít một ba ngày rồi hết hẳn làm cho bệnh nhân không để ý, chỉ thấy đau hạ sườn phải, gầy sút cân... thể này gặp 9,3%;
-Thể sốt kéo dài hàng tháng trở lên liên tục hoặc ngắt quãng, gan không to thậm chí cũng không đau gặp 5%;
-Thể vàng da : chiếm 3% do khối áp xe đè vào đường mật chính.Thể này bao giờ cũng nặng, dễ nhầm với áp xe đường mật hoặc ung thư gan, ung thư đường mật;
-Thể không đau : gan to nhưng không đau, do ổ áp xe ở sâu hoặc ổ áp xe nhỏ, thể này chiếm khoảng l,9%;
-Thể suy gan : do ổ áp xe quá to phá huỷ 50% tổ chức gan, ngoài phù cổ trướng thăm dò chức năng gan bị rối loạn, người bệnh có thể chết vì hôn mê gan;
-Thể theo kích thước của gan : gan không quá to do ổ áp xe nhỏ, nhưng ngược lại gan quá to ( to quá rốn ) to có khi tới hố chậu;
-Thể áp xe gan trái : rất ít gặp, chiếm khoảng 3 -5% trường hợp, chẩn đoán khó, dễ vỡ vào màng tim gây tràn mủ màng tim;
-Thể phổi màng phổi : do viêm nhiễm ở gan lan lên gây phản ứng màng phổi, hay do vỡ ổ áp xe lan lên phổi. Triệu chứng lâm sàng phần lớn là triệu chứng ở phổi (ho, đau ngực, khạc đờm) và triệu chứng màng phổi là chủ yếu, triệu chứng về áp xe gan không có hoặc lu mờ.Thể này chẩn đoán rất khó, thường nhầm với bệnh của phổi màng phổi;
-Thể có tràn dịch màng ngoài tim : ngay từ đầu khi thành lập ổ áp xe ở gan đã có biến chứng vào màng ngoài tim, triệu chứng về bệnh tim nổi bật, còn triệu chứng về áp xe gan bị che lấp di. Thể này thường chẩn đoán nhầm là tràn dịch màng ngoài tim;
-Thể giả ung thư gan : gan cũng to và cứng như ung thư gan, hoặc cũng gầy nhanh. Thể này gặp tỷ lệ 15 -16% trường hợp.
vPhần thứ 2 của câu hỏi bạn đặt ra cho chúng tôi là tại sao giun đũa phân bố rộng hơn giun móc/mỏ? Điều này có thể đúng và có thể sai, tùy thuộc vào từng vùng địa lý khác nhau và từng quốc gia khác nhau, ngay cả trong cùng một tỉnh, một huyện hoặc một xã cũng đã có sự khác nhau rồi. Trong đó các yếu tố có thể tham gia vào làm cho các tỷ lệ mắc các loài ký sinh trùng này khác nhau, gồm yếu tố môi trường, đất đai thổ nhưỡng, khí hậu, nhiệt độ, độ ẩm, vùng đó có can thiệp phòng chống bệnh thường xuyên hay không, các nhóm tuoir nhạy cảm cớ được can thiệp hay không, tập quán, thói quen trong ăn uống và sinh hoạt của quần thể dân tại đó;
vPhần thứ 3 của câu hỏi có liên quan đến căn bệnh do nấm Candida spp. Triệu chứng của tưa lưỡi, viêm âm đạo do nấm này như thế nào? Chúng tôi xin trả lời như sau:
Nấm Candida albicans sống bình thường trong ruột người và nhiều loại thú. Trên những nhóm người bình thường, khỏe mạnh, làm xét nghiệm có thể tìm thấy 39% có nấm Candida ở âm đạo, 30% ở miệng, 38% ở ruột, 46% có ở các nếp xếp (quanh hậu môn và 17% có ở phế quản (cùng một lúc bệnh nhân có thể bị nhiễm nấm nhiều nơi trên cơ thể, đặc biệt trên các cơ địa suy giảm miễn dịch). Điều đặc biệt, đây chính là những người hoàn toàn khỏe mạnh, không có một biểu hiện nào liên quan đến nhiễm nấm.
Trên các trường hợp này, vi nấm Candida albicans giữ một thể cân bằng với các vi khuẩn cùng sống với nó trên cùng cơ thể. Tất cả tạo thành một quần thể vi sinh sống bình thường của cơ thể. Trong một số điều kiện thuận lợi nhất định, vi nấm sẽ chuyển từ trạng thái “yên lặng” sang trạng thái “gây bệnh”. Đặc trưng của trạng thái này là số lượng vi nấm tăng lên rất nhiều, cho phép vi nấm len lỏi vào những tế bào của ký chủ và xâm nhập sâu hơn, người bệnh bắt đầu có biểu hiện các triệu chứng của bệnh nấm.
* Biểu hiện bệnh nấm Candida albicans ở âm đạo
Nhiễm nấm âm đạo thường gây ra bởi nấm Candida Albicans. Nấm là vi sinh vật ký sinh ở một số nơi trên da và bên trong âm đạo. Môi trường axít trong âm đạo giữ cho nấm không bùng phát. Nếu môi trường âm đạo bị kiềm hóa vì một lý do nào đó, nấm bùng phát (phát triển mạnh) gây ra chứng nhiễm nấm âm đạo. Môi trường acid âm đạo thường thay đổi trong khi hành kinh, mang thai, tiểu đường, dùng kháng sinh, thuốc ngừa thai và các thuốc chứa steroid. Ứ dịch âm đạo và những kích thích âm đạo là điều kiện kích thích cho nấm phát triển.
Bệnh viêm âm hộ, âm đạo do nấm rất hay gặp ở phụ nữ, nó đứng thứ hai sau viêm âm đạo do vi khuẩn và thường cao gấp 3 lần bệnh trùng roi âm đạo. Khoảng 75% phụ nữ trên thế giới bị nhiễm nấm (khoảng 50% phụ nữ bị nhiễm khuẩn hơn một lần trong đời). Người ta thống kê và nhận thấy có khoảng 30% phụ nữ có thai bị nhiễm nấm Candida âm đạo. Đây cũng chính là nguyên nhân gây nhiễm nấm ở trẻ sơ sinh do bị lây nhiễm trong lúc sinh- thường gặp là nấm miệng, chính vì vậy, mọi thai phụ đều nên được khám âm đạo trước khi sinh từ 4 đến 6 tuần, để nếu có bệnh sẽ được điều trị kịp thời, phòng tránh được việc lây nhiễm từ mẹ sang con.
Đàn ông khi quan hệ tình dục với phụ nữ bị bệnh cũng có thể bị viêm quy đầu, bao quy đầu gây đỏ, ngứa, cảm giác bỏng, rát và có chất nhày trắng tiết ra đầu dương vật
Nguyên nhân: ngoài các yếu tố thuận lợi trên, bệnh còn hay gặp ở những người không giữ vệ sinh cẩn thận, hoặc vệ sinh không đúng cách (thụt rửa âm đạo thường xuyên, làm rối loạn môi trường sinh lý và vi sinh âm đạo); hoặc mặc quần bó, chật, mặc quần lót bằng sợi nilon, để quần bị ẩm ướt thường xuyên do mồ hôi, nước tiểu,…dễ làm cho nấm phát triển; lúc thời tiết thay đổi, làm việc căng thẳng, hay bị Stress, bệnh tật cũng làm sức đề kháng trong cơ thể suy yếu, dễ bị vi khuẩn và nấm tấn công.
Triệu chứng: ngứa và nóng rát ở cơ quan sinh dục ngoài (âm hộ và âm đạo), dịch tiết âm đạo (huyết trắng bệnh lý) giống như pho-mát, đau khi giao hợp và sưng tấy âm hộ ngứa, đỏ tấy vùng sinh dục, chất huyết trắng có thể đóng thành mảng, có thể đi tiểu rát. Khi đó, nên đến bác sĩ để chẩn đoán, sàng lọc thêm các bệnh lý lây lan qua đường tình dục khác. Đôi khi nấm chỉ là một cái cớ để tầm soát các bệnh nặng hơn. Nếu chúng ta tự điều trị nấm mà không biết rằng chúng ta còn bị các nhiễm khuẩn khác thì tình hình ngày càng xấu hơn.
Điều trị nấm thường được điều trị bằng thuốc đặt âm đạo. Thuốc này có thể dưới dạng kem bôi bên trong âm đạo. Hoặc có thể dưới dạng viên đặt. Thuốc ở dạng kem có thể bôi ở âm hộ để giảm ngứa và một số dạng uống chóng nấm.
Cách đề phòng: giữ vệ sinh cá nhân cho vùng âm hộ, âm đạo luôn khô, sạch, lau khô sau mỗi khi đi vệ sinh, tắm, bơi. Thường xuyên thay quần lót, nên sử dụng quần lót bằng sợi cotton cho thông thoáng, dễ hút mồ hôi, tránh ẩm ướt; không nên mặc quần nilon, quần quá chật trong thời gian dài. Sau khi đi vệ sinh, phải rửa sạch và lau khô theo nguyên tắc "từ trước ra sau" - tức là từ âm hộ ra hậu môn, để tránh vi khuẩn từ phân, từ vùng hậu môn lọt vào vùng âm đạo. Không dùng các dụng cụ thụt rửa âm đạo, không dùng các sản phẩm vệ sinh phụ nữ dưới dạng xịt phun, không dùng các sản phẩm có chất khử mùi và có màu lau rửa cơ quan sinh dục ngoài; không nên tắm bồn, không ngâm mình trong nước nóng quá lâu; tránh giao hợp trong những ngày có kinh; chỉ thụt rửa âm đạo khi cần thiết, theo chỉ định và hướng dẫn của bác sĩ; nên đi khám phụ khoa định kỳ mỗi 3-6 tháng một lần; điều trị thuốc không được tùy tiện, tuyệt đối theo chỉ dẫn của bác sĩ, dược sĩ.
* Nhiễm nấm Candida ngoài da, niêm kẻ cả lưỡi
Candida là tên gọi của một loại nấm hiện diện khắp nơi kể cả cơ thể con người. Thông thường hệ thống miễn dịch của cơ thể ngăn chặn sự tăng trưởng của Candida. Khi hệ thống đề kháng của cơ thể suy kém, hoặc khi dùng thuốc kháng sinh lâu ngày, Candida có thể sinh sản và gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng Candida ảnh hưởng đến nhiều nơi trong cơ thể và ảnh hưởng khác nhau:
• “Thrust” là sự nhiễm trùng trong miệng, tạo ra những đốm trắng do mảng nấm tạo ra;
• Nhiễm trùng candida tại thực quản do lan từ miệng, gây khó khăn cho nhai nuốt;
• Nhiễm trùng candida tại âm hộ gây ngứa, đau rát;
• Nhiễm trùng candida ngoài da gây ngứa;
• Nhiễm trùng candida trong máu có thể gây tử vong, và nhiễm nấm ngoài da nữa.
Nguyên nhân do cơ thể con người là môi trường sinh sống của một số vi sinh vật, kể cả vi khuẩn và nấm. Một số các loại vi sinh này hữu ích cho cơ thể, một số không có ích nhưng cũng không nguy hại và số còn lại gây nhiễm trùng. Nhiễm trùng nấm gây ra bởi các loại nấm có thể sống trong các mô được xem như “chết” như tóc, móng tay, móng chân và lớp ngoài của da. Nhiễm trùng nấm bao gồm loại nhiễm trùng “mold” (như nấm dermatophyte) và “yeast” (như nấm Candida). Nhiễm trùng candida ngoài da xuất hiện tại các vùng da ấm, ẩm ướt, xếp lớp như nách và háng. Loại nhiễm trùng này xảy ra khá thông thường.
Candida là nguyên nhân thường thấy nhất trong các loại nốt ngứa do tã lót ẩm ướt của trẻ em, hầu hết do loại nấm Candida albicans. Nhiễm trùng candida cũng thường xuất hiện trong những người bị tiểu đường và những người bị béo phì. Thuốc kháng sinh và thuốc ngừa thai gia tăng tỷ lệ bị nhiễm trùng do candida gây ra. Nhiễm trùng candida tại móng tay và khóe miệng cũng thường hay gặp. Nhiễm nấm candida trên màng nhàytrong miệng, xuất hiện khi dùng thuốc kháng sinh tương tự như nhiễm trùng candida tại âm hộ. Thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn và do đó tạo cơ hội cho Candida tăng trưởng.
Triệu chứng có thể ngứa, nỏi mề đay trên da, da đỏ và rát, những mảng da nổi cứng dạng bong bóng hoặc mụt nhỏ, những mảng da nhỏ xen kẽ những mảng da lớn, ở những vùng da xếp nếp, chỗ kín, lưng, mông, dưới vú hoặc những nơi khác; nhiễm trùng lỗ chân lông,…
Việc chẩn đoán bệnh tùy theo những vệt ngứa trên da, nhất là khi có các yếu tố gia tăng tỷ lệ nhiệm trùng như tiểu đường, hệ miễn dịch suy yếu, dùng thuốc hoặc dược thảo có tính kháng sinh. Một vảy da dưới kính hiển vi có dạng nấm candida là cách chẩn đoán xác định sớm nhất.
Điều trị là cần giữ vệ sinh tốt để ngăn nhiễm candida nhanh chóng nhất: giữ da khô và thoáng, người béo phì cần giảm cân, tiểu đường cần giữ lượng đường huyết trong mức bình thường liên tục. Chữa trị bằng cách dùng những loại thuốc để thoa ngoài da, trên vảy ngứa và thuốc chống nấm loại uống để trị nhiễm trùng tại móng tay hoặc chân lông. Khi bị nhiễm nấm đi kèm candida tại âm hộ, cần dùng các loại thuốc đạt âm đạo hoặc dạng kem.
Hy vọng với những phần trả lời của chúng toi sẽ làm bạn hài lòng, thân chúc bạn vui, khỏe.