Nội soi (Endoscopy) có nghĩa là nhìn thấy bên trong và có nhã ý nhìn được bên trong toàn bộ cơ thể vì một nguyên do nào đó ứng dụng trong y học và được gọi theo từ ghép “endoscope”. Nội soi cũng có thể sử dụng một borescope trong điều kiện kỹ thuật tại những nơi mà chúng ta phải xem thông qua camera chứ không thể xem trực tiếp được. Nội soi là một thủ thuật y học chẩn đoán có xâm lấn (an invasive diagnostic medical procedure) được sử dụng để đánh giá các bề mặt bên trong của một cơ quan trong cơ thể bằng cách đưa một ống soi vào cơ thể. Dụng cụ có thể là một ống soi cứng (rigid tube) hoặc mềm (flexible tube) và không chỉ cung cấp hình ảnh có thể nhìn thấy bằng mắt thường và hình ảnh mà còn có thể lấy được các mảnh mô qua sinh thiết đồng thời hoặc cũng có thể qua nội soi lấy hoặc gắp bỏ các vật lạ. Nội soi còn được xem là một phương tiện phảu thuật có xâm nhập tối thiểu nhất đối với bệnh nhân (phẩu thuật nội soi).
Nhiểu thủ thuật nôi soi được cân nhắc đến các đặc tính là không đau và ít xảy ra những điều tồi tệ nhất; Chẳng hạn, trong nội soi thực quản-dạ dày-tá tràng (esophagogastroduodenoscopy), hầu hết các bệnh nhân đều “dung nạp” tốt với thủ thuật sau khi đã tiến hành gây tê tại chỗ bằng thuốc phun xịt ở vùng hầu họng. Các biến chứng rất hiếm những có thể xảy ra, bao gồm thủng các tạng trong lúc soi hoặc cắt mẫu bệnh phẩm bằng dụng cụ. Nếu điều đó xảy ra, việc tiến hành phẩu thuật phải đặt ra và giải quyết ngay vết thương. Một số khác có thể gây nên nhiễm trùng hoặc “lây lan” mầm bệnh.
Thành phần của một bộ nội soi và ứng dụng
Một bộ nội soi gồm có 1 ống soi cứng hoặc mềm, một hệ thống đèn chiếu sáng đến các cơ quan cần soi để quan sát cho kỹ. Nguồn điện bình thường lắp bên ngoài cơ thể và đường dãn ánh sáng đi trực tiếp thông qua hệ thống sợi quang (optical fiber system). Một hệ thống kính dẫn truyền hình ảnh từ hệ kinh quang đến người xem.
Nội soi được chỉ định cũng khá rộng rãi trong chẩn đoán, điều trị trên đường tiêu hóa (thực quản, dạ dày, tá tràng (esophagogastroduodenoscopy), trên ruột non (enteroscopy), trên đại tràng (colonoscopy, sigmoidoscopy), hệ đường mật như nội soi mật tụy ngược dòng (endoscopic retrograde cholangiopancreatography_ERCP), nội soi mật tụy có trợ giúp của nội soi tá tràng (duodenoscope-assisted cholangiopancreatoscopy) hoặc nội soi mật trong quá trình phẩu thuật ( intraoperative cholangioscopy). Nội soi đại trực tràng (rectoscopy) và hậu môn (anoscopy). Nội soi mũi xoang (rhinoscopy), nội soi đường hô hấp dưới (bronchoscopy). Nội soi tai (otoscope), nôi soi tiets niệu (cystoscopy). Trong lĩnh vực sản phụ khoa, nội soi có áp dụng để thực hiện nội soi cổ tử cung (colposcopy), nội soi buồng tử cung (hysteroscopy), nội soi vòi trứng (falloscopy). Trong thời gian thai nghén, nội soi có thể can thiệp vào ối (amnioscopy), hoặc phôi thai (fetoscopy)
Nội soi còn liên quan đến các khoang cơ thể, thông qua một lỗ cắt nhỏ. Nội soi ở khoang chậu hông hoặc thăm dò ổ bụng (laparoscopy), nội soi khớp (arthroscopy), nội soi chẩn đoán các cơ quan trong khoang ngực và trung thất (thoracoscopy and mediastinoscopy). Nội soi còn giúp trong khâu phẩu thuật tạo hình và panendoscopy. Có thể cùng lúc phối hợp nhiều thủ thuật nội soi như laryngoscopy, esophagoscopy, và bronchoscopy. Đối với lĩnh vực ngoại khoa, nội soi có thể giúp trong các bệnh lý ống cổ tay (endoscopic carpal tunnel release surgery).
Nội soi có thể ứng dụng trong các vấn đề không liên quan đến y học như khía cạnh kiến trúc, xây dựng, thiết kế ra các mô hình xây dựng, gọi là architectural endoscopy. Nội soi giải quyết các chi tiết kỹ thuật phức tạp bên trong cấu trúc borescope, nội soi còn giúp lấy các dụng cụ và thăm dò bom mìn, hoặc FBI sử dụng nội soi tiến hành giám sát thông qua các khoảng không gian,…
Về lịch sử của công cụ và thủ thuật nội soi
Nội soi lần đầu tiên phát triển năm 1806 do tác giả Philip Bozzini với lời giới thiệu rất hay đó là một đường dẫn truyền ánh sáng ("Lichtleiter" tiếng Đức có nghĩa là dẫn ánh sáng), dùng để khám các đường hoặc khoang trong cơ thể con người. Tuy nhiên, sau đó Hội đồng y khoa Vienna không tán thành với sự mới lạ này. Đến năm 1822, một thiết bị nội soi làn đầu tiên giới thiệu trên người bởi tác giả William Beaumont, một nhà phẩu thuật phục vụ trong quân đội tại Mackinac Island, Michigan. Thiết bị này sử dụng nguồn ánh sáng đèn như một bước chính trong việc cải thiện thiết bị nội soi trước đó. Đén đầu tiên đó lắp đặt bên ngoài. Sau đó, các bóng đèn nhỏ ra đời đã trở thành các bòng đèn lắp bên trong và thay bằng đèn nhỏ ấy và nội soi bàng quang (hysteroscope) bởi tác giả Charles David vào năm 1908. Hans Christian Jacobaeus đã tin cậy vào sự thăm dò nội soi sớm này trong khoang ngực và khoang bụng với tên là laparoscopy (1912) và thoracoscopy (1910). Laparoscopy (nội soi ổ bụng) được dùng để chẩn đoán các bệnh lý gan và mật đầu tiên do Heinz Kalk đưa ra vào năm 1930. Hope cũng đã báo cáo năm 1937 về việc sử dụng laparoscopy để chẩn đoán thai ngoài tử cung. Năm 1944, Raoul Palmer đặt bệnh nhân nằm tư thế Trendelenburg để thực hiện các thủ thuật về nội soi sản phụ khoa.
Karl Storz đã thiết kế ra các công cụ nội soi cho các nhà tai mũi họng vào năm 1945. Ý định của ông ta là phát triển các dụng cụ này sao cho các thầy thuốc có thể nhìn tháu được ben trong cơ thể. Kỹ thuật này đến cuối chiến tranh thế giới thứ 2 vẫn còn rất mốt: vùng đươc kiểm tra trong khong cơ thể là được chiếu sáng bằng bóng đèn cực nhỏ; đưa ánh sáng từ ngoài vào bên trong cơ thể thông qua ống nội soi. Karl Storz theo đuổi một kế hoạch: làm thế nào cho ra một ánh sáng rất sáng nhưng ánh sáng lạnh đưa vào bên trong cơ thể, do dó sẽ cung cấp tầm nhìn tuyệt vời, trong cùng một lúc có thể cho phép xem các vật thể khác nhau thông qua hình ảnh dẫn truyền. Với hơn 400 bằng sáng chế và mẫu vật gắn liền tên của ông ta, đóng một vai trò quan trọng dẫn đầu trong nội soi. Karl Storz đóng một vai trò chính trong sự phát triển của lịch sử nội soi. Tuy nhiên, sự phối hợp các kỹ năng về thiết kế cũng như tầm nhìn của ông ta đã phần nào giúp cho công trình thiết kế thấu quang của Harold Hopkins và từ đó có những cải tiến nhất định về mặt quang học của lĩnh vực nội soi.
Nội soi dạ dày lần dầu tiên tiến hành vào năm 1952 bởi một nhóm bác sĩ người Nhật Bản và các kỹ sư chuyên ngành quang học. Mutsuo Sugiura và tập đoàn tiến sĩ Tatsuro Uji và cộng sự của ông ta là Shoji Fukami để triển khai một thiết bị nội soi có dẫn truyền hình ảnh ra bên ngoài gọi là “gastro camera". Người ta còn gọi là một máy quay phim tí hon đính liền với một tube mềm và đèn chiếu. Máy có thể chụp ảnh các vết loét dạ dày mà X - quang không thể phát hiện được và có thể phát hiện các hình ảnh của ung thư tại cơ quan này trong giai đoạn sớm.
Vào đầu những năm 1950, Harold Hopkins đã thiết kế ra một thiết bị nội soi ống soi mềm có thể truyền hình ảnh ra bên ngoài (fibroscope), chúng minh tính hữu ích cả về mặt công nghệ lẫn y học. Các nghiên cứu tiếp theo và phát triển các sợi quang, cải thiện và nâng cấp chất lượng hình ảnh. Các tiến bộ sau đó đã sử dụng các sợi quang dẫn truyền các luồn ánh sáng vào các vùng và vật cần xem từ nguồn sáng bên ngoài. Do vậy, khi có đủ ảnh sáng thì hình ảnh và độ tinh của hình ảnh sẽ rõ nét. Kế theo những tiến bộ về khía cạnh quang học, tiến dần đến khả năng dẫn đường thông quan đầu ống soi và cách kiểm soát hoặc điều khiển của các chuyên gia nội soi. Gần đây hơn, các tiến bộ về phẩu thuật nội soi có thể trực tiếp hoặc qua hệ thống camera để điều khiển từ xa có kết hợp công nghệ của telemedicine. Lần đầu tiên phẩu thuật qua nội soi qua một lỗ chính ngày nay được biết đến là tác giả Fernando Alves Martins, từ Bồ Đào Nha, làn đầu tiên đã sử dụng ống soi mềm vào khoảng năm 1963-1963.
Nội soi tiêu hóa: tiến bộ vượt bậc của y học hiện đại
Nội soi đóng một vai trò quan trọng trong y học, đặc biệt nội soi tiêu hoá lại đóng một vai trò quan trọng hơn, không thể thiếu được trong chẩn đoán và điều trị một số bệnh lý tiêu hoá. Hiện nay ở Việt Nam cũng như nhiều nước trên thế giới, nội soi tiêu hoá đã trở thành một chuyên ngành sâu, có bác sĩ chuyên khoa riêng, bởi vì nó không chỉ còn đơn thuần là nội soi chẩn đoán như trước đây nữa mà nó còn là nội soi điều trị, nó không còn chỉ nhìn bằng mắt thường mà đã phát triển thành nội soi video, nội soi siêu âm,...
Sự phát triển và ứng dụng nội soi ống mềm trên thế giới
1932: Wolf, Schindler, Lange trình bày lần đầu tiên đèn soi dạ dày nửa cứng nửa mềm.
1957 - 1958: Nội soi ống mềm hoàn toàn.
1958: Hirschowitz sử dụng ống soi mềm hoàn toàn, mở ra một thời đại phát triển mới.
1968: Lần đầu tiên đưa ống thông vào papille (mac lune)
1969 - 1970: Nội soi đại tràng toàn bộ.
1970: Chụp mật tuỵ ngược dòng.
1970: Nội soi đại tràng bằng ống soi mềm, kèm theo cắt polype.
1971 - 1972: Cắt Polype dạ dày, đại tràng, ruột non qua nội soi.
1973-1974: Lần đầu tiên qua nội soi cắt cơ vòng Oddi (Kawai, Classen).
1975: Cầm máu bằng Laser.
1976: Tiêm cầm máu, siêu âm nội soi.
1977: Phá sỏi bằng thuỷ điện, tiêm xơ tĩnh mạch thực quản.
1979: Cầm chảy máu bằng thuỷ điện, dẫn lưu đường mật.
1979: Lần đầu tiên đặt ống dẫn lưu mật (Soehendra)
1980: Siêu âm nội soi phát triển và ứng dụng.
1981: Mở thông dạ dày qua nội soi.
1982: Tán sỏi bằng cơ học, điều trị khối u bằng Laser.
1983-1984: Nội soi video đưa vào áp dụng trong chẩn đoán và điều trị.
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới đều thực hiện nội soi ống mềm cho cả dạ dày và đài tràng, cả nội soi chẩn đoán và nội soi điều trị. Ở Nhật, Hội Nội soi ra đời cách đây 53 năm, trước cả Hội Tiêu hoá. Nhật Bản đang dẫn đầu thế giới về phát hiện sớm ung thư tiêu hóa nói chung và đại tràng nói riêng. Ở Đức, Hội nội soi ra đã ra đời và hoạt động được 44 năm, cứ 2 năm một lần tổ chức hội nghị khoa học, đến nay được tổ chức 21 hội nghị.
Chuyển gia tư vấn và trả lời: Xét nghiệm y khoa và các bệnh căn nguyên bệnh lýNội soi tiêu hóa là phương pháp mà các nhà chuyên môn về tiêu hóa có thể sử dụng để thám sát đường tiêu hóa gồm thực quản, dạ dày, tá tràng bằng cách dùng một ống nhỏ mềm mại dễ uốn cong, bác sĩ có thể xem trực tiếp hay qua một màn hình. Chuẩn bị nội soi như thế nào? Để dễ quan sát, an toàn và trọn vẹn, dạ dày phải trống. Bạn sẽ được yêu cầu không ăn và uống ít nhất 6 giờ trước khi can thiệp nội soi. Trước tiên, để lên kế hoạch nội soi bạn nên cho bác sĩ biết những loại thuốc bạn đang sử dụng, những tác nhân gây dị ứng và tất cả những vấn đề về sức khoẻ của bạn. Tất cả những thông tin đó nhắc nhở bác sĩ xác định xem bạn có cần kháng sinh trước khi nội soi hay không, những loại thuốc nào không nên dùng do bạn dị ứng và sẽ lên kế hoạch phù hợp cũng như chỉ dẫn những ảnh hưởng của thuốc cũng như điều chỉnh thuốc thích hợp trước khi nôi soi. Những vấn đề về sức khoẻ như bệnh tim hay phổi phải báo cho bác sĩ biết để có những can thiệp kịp thời trong khi soi.
Tại sao phải lên chương trình khi nội soi? Nội soi thường được thực hiện đánh giá và xác định những vấn đề ở thực quản, dạ dày, tá tràng và đánh giá những nguyên do gây triệu chứng như đau bụng vùng thượng vị, buồn nôn, ói, khó nuốt, thiếu máu, …Nội soi xác định chính xác hơn x quang tình trạng viêm hay những tổn thương nhỏ như ung thư hay khối u bằng dụng cụ đưa vào tới tổn thương. Lợi điểm chủ yếu nhất của nội soi là khả năng thực hiện sinh thiết (lấy một mẫu mô nhỏ) hay làm tế bào học (một vài tế bào được lấy bằng dụng cụ chải niêm mạc) và xem qua kính hiển vi để xác định bản chất của nó và xem có những tổn thương lành tính hay ác tính hay không. Sinh thiết được chỉ định làm bởi nhiều lí do và không có nghĩa là nghi ngờ ung thư. Nội soi còn là phương pháp điều trị. Các kênh của ống nội soi cho phép đưa vào những dụng cụ để điều trị như làm nong đoạn hẹp (ống tiêu hóa bị teo), lấy đi một khối u lành tính như polyp, chích cầm máu. Điều trị xuất huyết tiêu hóa trên do ung thư hay xuất huyết niêm mạc (viêm loét dạ dày, tá tràng), nhờ vào can thiệp bằng nội soi đã làm giảm được các trường hợp phải truyền máu hay phẫu thuật.
Có thể mong đợi gì trong khi nội soi ? Trước khi thực hiện nội soi bác sĩ sẽ giải thích cho bạn biết tại sao cần phải thực hiện nội soi, những biến chứng do nội soi có thể xảy ra. Cách thực hiện có khác nhau giữa các bác sĩ nhưng chung vẫn là bạn được xịt một lượng dung dịch thuốc tê vào họng và có thể dùng thuốc an thần và giảm đau chích tĩnh mạch. Trong khi soi bạn nằm nghiêng bên trái bên cạnh ống soi, ống to cỡ ngón tay được đưa vào miệng đi xuống thực quản, dạ dày, và tá tràng. Phương pháp này không làm cản trở sự thở của bạn. Đa số bệnh nhân trải qua cuộc soi một cách nhẹ nhàng chỉ một số thấy khó chịu chút xíu.
Điều gì xảy ra sau khi soi ? Sau khi soi xong, bạn được quan sát và theo dõi ở khu vực hồi sức cho đến khi những dấu hiệu của thuốc đã dùng biến mất. Thông thường bệnh nhân cảm thấy đau họng nhẹ và sẽ mau chóng biến mất khi ngậm hay súc miệng với nước muối, hay cảm giác đầy hơi do hơi được bơm vào khi soi. Cả hai triệu chứng này nhẹ và sẽ qua mau. Ở khu vực hồi sức bạn được hướng dẫn khi nào sẽ được ăn lại bình thường và khi nào sẽ được đưa về nhà (bởi vì, do tác dụng thuốc an thần cho nên bạn không tự lái xe và điều khiển máy móc ngay được)
Nguy cơ gì khi được can thiệp nội soi ? Nội soi là phương pháp an toàn và được thực hiện bởi những bác sĩ chuyên về soi đã được huấn luyện. Biến chứng do nội soi thì cực kỳ hiếm. Có thể là sự kích thích tại chỗ tiêm thuốc, phản ứng với các thuốc hay thuốc an thần được sử dụng, biến chứng do bệnh lý tim phổi hay gan có trước đó, có thể chảy máu nơi sinh thiết hay cắt polyp. Biến chứng hiếm khi xảy ra là thủng ruột và đòi hỏi phải phẫu thuật sữa chữa. Hầu hết các bác sĩ nội soi đều được huấn luyện về chuyên môn rất vững và họ rất hài lòng để giải đáp những thắc mắc của bạn về việc nội soi tiêu hóa.
Nội soi thực quản, dạ dày, tá tràng là một phương pháp thăm khám có thể giúp quan sát trực tiếp thực quản, dạ dày và đoạn đầu của ruột non nhờ vào một ống soi mềm có đường kính nhỏ được đưa vào qua đường miệng, bác sĩ có thể phát hiện được các bất thường nếu có. Khác với nguyên lý của các phương pháp chẩn đoán hình ảnh khác như X-quang, siêu âm … dựa trên việc phân tích các hình ảnh gián tiếp, thì ở đây nội soi thực quản, dạ dày, tá tràng cho phép quan sát hình ảnh trực tiếp của tổn thương. Nhờ đó, việc xác định bệnh được chính xác hơn và có thể phát hiện được các tổn thương ngay cả khi còn nhỏ. Ngoài ra, điểm ưu việt hơn của nội soi thực quản, dạ dày, tá tràng là trong những trường hợp cần thiết, bác sĩ có thể tiến hành sinh thiết (lấy những mẫu mô nhỏ) để phân tích qua kính hiển vi, để làm xét nghiệm tìm loại vi khuẩn có khả năng gây viêm loét và ung thư dạ dày (Helicobacter pylori) cũng như thực hiện việc điều trị qua nội soi như cắt đốt hoặc cầm máu cho những vùng chảy máu …
Những ai cần nội soi thực quản, dạ dày, tá tràng? Những trường hợp thường được bác sĩ chỉ định nội soi là: tiền sử có lần bị ói ra máu hoặc đi cầu phân đen, nuốt nghẹn, nuốt đau, đau bụng vùng trên rốn, nhất là lúc bụng đói hoặc sau khi ăn no; ăn mau no, đầy bụng khó tiêu sau ăn, ợ chua; khi nghi ngờ bị viêm loét dạ dày, tá tràng hoặc cần loại trừ ung thư đường tiêu hoá trên.
Với các ung thư ở đại tràng, nhờ nội soi cũng phát hiện hầu hết các trường hợp. Các tác giả Nguyễn Thúy Oanh và Lê Quang Nghĩa và cộng sự đã tiến hành công trình nghiên cứu nhằm mục tiêu nghiên cứu kết quả bước đầu của kỹ thuật nội soi đại tràng với ống soi mềm trong chẩn đoán các tổn thương ung thư đại - trực tràng. Công trình được thực hiện từ 1994 đến 1999 tại Phòng Nội soi tiêu hóa tại BV Bình Dân và Phòng Khám trường ÐH Y dược thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả cho thấy đã thực hiện nội soi đại tràng ở 1.015 bệnh nhân, gồm 471 nam và 544 nữ, phát hiện thấy 606 bệnh nhân có bệnh lý ở đại - trực tràng (59.7%), trong đó 294 nam và 312 nữ có bệnh. Tuổi trung bình là 45,45, trong đó tuổi nhỏ nhất là 4 và lớn nhất là 90. Lý do đi nội soi đại tràng là thường nhất là rối loạn tiêu hóa: 352 lượt (34.67%), đi tiêu ra máu: 238 lượt (23.44%). Nhóm triệu chứng ít gặp là rối loạn đi cầu, u bụng và tắc ruột. Kết quả nội soi: có 895 trường hợp soi được đến manh tràng, tỷ lệ là 88.17%. 120 bệnh nhân soi không đến được manh tràng (11,82%), nguyên nhân là 21 trường hợp (2,06%) do đại tràng quá dài và xoắn vặn nhiều, 85 trường hợp (8.37%) do bướu quá lớn gây nghẹt lòng ruột già, 14 trường hợp (1.37%) do bệnh lý dễ thủng ruột hoặc xuất huyết khiến phải ngưng soi. Các tổn thương phát hiện 606 bệnh nhân có những bệnh lý chính ở đại tràng - trực tràng là 176 trường hợp ung thư (29.04%), 226 trường hợp polype, 190 trường hợp viêm và viêm loét các loại.
Tổn thương ung thư: trong 176 trường hợp bị ung thư đại - trực tràng, có 95 nam và 81 nữ. Tuổi trung bình bệnh nhân bị ung thư đại tràng-trực tràng là 56. Có 31 ung thư kèm đơn polype (25 trường hợp), hoặc đa polype (6 trường hợp). Các polype này thường nằm kề bên ổ ung thư hoặc hiện diện rải rác trên khung đại tràng. Có 4 trường hợp ung thư ở 2 nơi trên khung đại tràng. Vị trí ung thư trên khung đại tràng: trực tràng 39,20%, đại tràng xích ma 18,75%, đại tràng xuống? 14,77%, đại tràng ngang 5,11%, đại tràng lên 12,5%, manh tràng 9,65%. Kết quả đại thể của ung thư: 147 ung thư dạng chồi sùi. 20 ung thư dạng loét sùi. 7 ung thư dạng polype và 2 ung thư dạng thâm nhiễm. Kích thước ung thư: 14 trường hợp còn nhỏ, kích thước từ 1cm đến vòng đại tràng, chiếm tỉ lệ 7.95 %. Có 37 trường hợp ung thư lan từ đến vòng đại tràng, chiếm tỉ lệ 21.02%. 31 trường hợp ung thư lan đến vòng đại tràng. Như vậy có 125 trường hợp ung thư đến muộn hoặc quá muộn vì ung thư đã lan rộng trên vòng đại tràng, chiếm tỉ lệ 71.02 %.
Nội soi đại tràng qua ống nội soi mềm là tiến bộ rất lớn trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý đại tràng. Trong nghiên cứu này cũng đã chỉ ra ưu điểm của nội soi đại tràng đã mô tả rất rõ số lượng và tính chất tổn thương của đại trực tràng và mô tả rất kỹ hình ảnh đại thể của các thương tổn ung thư khu vực tiêu hóa này.
Nội soi với các ứng dụng nổi bật trong chuyên khoa bệnh lý ký sinh trùng
Đối với chuyên ngành ký sinh trùng và nội khoa, nội soi chẩn đoán và điều trị đến nay dường như là một chuyên khoa gắn liền với nhau hơn. Đặc biệt, các bệnh lý giun sán ký sinh và gây bệnh tại các cơ quan tiêu hóa, khi chúng lạc chỗ (ectopic foci) gây kẹt hoặc sán giun sán chết lưu lại dính vào các tạng trên hệ đường mật, dễ gây các hình ảnh lâm sàng hoặc trên siêu âm nhầm lẫn với các bệnh lý khác như vết tân sinh, chẩn đoán nhầm ung thư; các vết loét dễ chảy máu nhầm lẫn chảy máu do nguyên nhân đường mật,…trong các tình huống đó, nếu có sự can thiệp của các phương pháp và kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh, nhất là nội soi cho hình ảnh trực tiếp sẽ nhanh chóng và loại trừ chẩn đoán, và điều trị tốt nhất và hiệu quả nhất.
Chẳng hạn, một số trường hợp phải dùng đến nội soi hoặc nội soi siêu âm, hoặc nội soi mật tụy ngược dòng để chẩn đoán, để gắp lấy sán lá gan, giun đũa kẹt và gây viêm nhiễm trong hệ gan mật và các ca như thế cũng đã được ghi nhận và báo cáo tại các hội nghị khoa học quốc tế và trong nước cho thấy tầm quan trọng của nội soi trong trợ giúp cho chuyên khoa ký sinh trùng. Một ứng dụng nữa trong bệnh sán lá gan lớn là dùng nội soi có hút dịch tá tràng để lấy dịch tá tràng xem có trứng sán hay không (vì đây là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán bệnh sán lá gan lớn).