Đánh giá lâm sàng các thông số trong nước tiểu qua máy phân tích nước tiểu tự động 10 và 14 thông số
Nước tiểu là dịch bài xuất quan trọng nhất, chứa phần lớn các chất cặn bã của cơ thể. Những thay đổi về các chỉ số hoá lý và nhất là thay đổi thành phần hoá học sẽ phản ánh những rối loạn chuyển hoá của cơ thể. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải xét nghiệm phân tích mẫu nước tiểu của bệnh nhân nghi ngờ? Mặc dù, giá trị việc nhận xét nước tiểu để đánh giá tình trạng bệnh lý của từng bệnh nhân hoặc nhóm bệnh nhân từ lâu có giá trị nhất định không thể phủ định. Nhân một câu hỏi của bệnh nhân về ý nghĩa và giá trị của từng loại thông số có mặt khi xét nghiệm mẫu nước tiểu bằng máy phân tích tự động hiện nay như thế nào, chúng tôi xin cập nhật các nghiên cứu về ý nghĩa và giá trị của chúng trong lâm sàng. Khảo sát nước tiểu là thử nghiệm quan trọng trong phát hiện, chẩn đoán và chăm sóc, theo dõi sức khỏe con người, qua đó giúp sàng lọc, phát hiện, chẩn đoán bệnh lý và theo dõi quá trình điều trị theo thời gian, đồng thời cung cấp thông tin cần thiết cho cơ thể. Vì thận-tiết niệu đóng một vai trò quan trọng trong đặc tính sinh lý cơ thể, nên những thay đổi bệnh lý xuất hiện sớm trong nước tiểu trước khi có biểu hiện lâm sàng rõ rệt. Trên thực tế, nhiều nhân viên y tế nhận được kết quả phân tích nước tiểu 10 hay 14 thông số cũng ngỡ ngàng không thể giải thích hết ý nghĩa của nó cũng như giải thích các giá trị bình thường hay bất thường. Bài viết này sẽ giúp phân tích nước tiểu ít nhiều cung cấp cho bác sĩ lâm sàng các thông tin bên trong giá trị, cho phép chỉ định điều trị sớm, hay ít ra là ngăn ngừa sự tiến triển bệnh và hạn chế tổn thương, biến chứng cho bệnh nhân. Một số thông tin có giá trị từ bên trong -Tiểu ra protein và máu là dấu hiệu “nhạy bén” của bệnh lý thận niệu; -Tiểu ra glucose thường là dấu hiệu đầu tiên của đái tháo đường, nhưng có thể phản ứng giả; -Rối loạn chức năng gan có thể được phát hiện sớm nhờ các phát hiện các sắc tố mật trong nước tiểu; -Bệnh lý tán huyết được chẩn đoán nhờ sự xuất hiện haemoglobin và tăng urobilinogen; -Vi khuẩn trong nước tiểu không biểu hiện lâm sàng vẫn phát hiện được nhờ test phát hiện thành phần bạch cầu và nitrit dương tính; -Tỷ trọng riêng nước tiểu phản ánh khả năng cô đặc hoặc pha loãng, cũng như góp phần biện luận cho các thử nghiệm khác ở hệ thận tiết niệu; -Các kết quả âm tính và dương tính cung cấp thông tin lâm sàng của cơ thể đó. Máy phân tích nước tiểu sử dụng que thử 10, 11 hoặc 14 thông số có cấu tạo đơn giản, dễ sử dụng, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao, được sử dụng để xác định định tính tỷ trọng nước tiểu, protein, đường niệu, nitrit, bạch cầu, máu, cetonic, bilirubin, acid ascorbic (loại que 11 thông số) hoặc tính ra các thành phần albumin, protein, tỷ số albumin và protein (loại que 14 thông số). Việc xác định các thông số này dựa trên nguyên tắc quang phổ kế khúc xạ, máy có khả năng lưu dữ liệu kết quả của bệnh nhân, màn hình hiển thị tinh thể lỏng, sử dụng công nghệ cảm biến màu. Trên thị trường có nhiều loại máy phân tích nước tiểu theo các thế hệ khác nhau như Clinitek, Diditron, Miditron, Junior, Urilux, Urereader, Combi scan, Docureader, HandUreader có thể sử dụng nhiều ngôn ngữ khác nhau tùy thuộc quốc gia sử dụng, giấy in nhiệt từ máy in được tích hợp trong máy, có độ ổn định cao, giao diện và kết nối với nhiều thiết bị ngoại vi qua cổng tiếp USB và SP2. Hình 1
Nguyên tắc hoạt động máy phân tích nước tiểu tự động Máy phân tích nước tiểu tự động là một máy quang phổ kế khúc xạ, sử dụng màn hình cảm biến LCD màu, được sử dụng bán định lượng các thông số trong nước tiểu bằng cách sử dụng thanh nhúng. Các bóng đèn 2 cực phát ra ánh sáng từ nguồn sáng và thời gian đo được tối ưu hoá để phản ứng hoá học và tạo màu trongvùng phản ứng của thuốc thử. Kích thước máy phân tích nước tiểu có thể lớn nhỏ khác nhau tùy theo thế hệ và nhà sản xuất. Đầu đo trong máy chứa 3 bóng đèn có các bước sóng khác nhau. Que thử được đặt trong một vị trí cố định, gọi là khay thanh nhúng và đầu đo di chuyển trên mỗi miếng đệm thuốc thử, bắt đầu từ vị trí tham chiếu đến nơi hệ thống quang học bắt đầu hoạt động. Trong quá trình đo, máy kiểm tra vị trí của thanh thử dưới đầu đo bằng cách thực hiện sử kiểm tra một cách chính xác dòng ánh sáng khúc xạ được đo. Nếu que nhúng được đặt thiếu chính xác dưới đầu đo, máy sẽ thông báo một tín hiệu lỗi. Cần lưu ý, trước khi đo một que nhúng của một bệnh nhân, nên làm sạch khay đựng que nhúng nước tiểu vì các yếu tố nhiễm chéo có thể xảy ra tại đây nếu bệnh nhân có nhiễm trùng đường tiểu hoặc các yếu tố tạp nhiễm khác. Ý nghĩa từng thông số trong xét nghiệm nước tiểu * Các thông số không thuộc phân tích que thử nhanh Thể tích: thể tích nước tiểu trung bình ở người lớn là 1.000-1400 ml/24 giờ, tương đương với 18-20 ml/kg trọng lượng cơ thể. Thể tích nước tiểu thay đổi tùy theo tình trạng sinh lý và bệnh lý của cơ thể (tuổi, chế độ ăn uống, chế độ làm việc, bệnh lý thận tiết niệu, bệnh lý các tuyến liên quan); Hình 2
Mùi nước tiểu: nước tiểu bình thường có mùi nhẹ đặc biệt, khi để ra ngoài không khí lâu sẽ có mùi khai do sự biến đổi các thành phần, nhất là chuyển ure thành amoniac. Nước tiểu nhiễm trùng có mùi hôi ngay khi mới lấy và giảm dần khi để lâu. Một số chất bay hơi có thể có mùi đặc trưng, chẳng hạn mùi aceton trên bệnh nhân tiểu đường có nhiễm toan. Trong trường hợp bệnh lý, nước tiểu có mùi aceton, mùi hôi do sốt cao, ung thư thận, ung thư bàng quang, đái tháo đường. Sức căng bề mặt: nước tiểu bình thường có sức căng bề mặt thấp hơn nước, từ 64-69 dysne/cm2 (sức căng bề mặt của nước là 72). Một số thuốc có cồn, ether, chloroform gây sức căng bề mặt nước tiểu giảm. Hình 3. Đánh giá định tính qua phân tích que thử nước tiểu nhanh
Màu sắc: Màu sắc nước tiểu từ vàng nhạt đến màu hổ phách, tuỳ vào lượng nước tiểu bài xuất và đậm độ nước tiểu. Những sắc tố chính trong nước tiểu là urochrom, các sản phẩm chứa nitơ, urobilin (sản phẩm oxy hoá của urobilinogen, hemoglobin), dẫn xuất của indoxyl. Ngoài ra, trong một số trường hợp bệnh lý, nước tiểu có thể có các chất làm cho màu sắc thay đổi trong bệnh lý gan mật, chảy máu đường tiết niệu, đái dưỡng trấp thì nước tiểu có màu trắng đục như nước vo gạo. Màu nội sinh | Màu ngoại sinh | Đỏ Đỏ nâu | Hemoglobine Myoglobin | Đỏ | Trên một số người sau ăn củ cải đường | Đỏ đục | Hồng cầu (không ly giải) | Cam | | Vàng (có bọt khi lắc) | Bilirubine | Hồng (nếu tính kiềm) | | Từ nâu đến đen (khi để lâu) | Bệnh lý alkaptonuria | Xanh Xanh lá | Methylen blue (thuốc gan, thận) | Nâu (khi để lâu) | L-Dopa |
Độ trong suốt: Nước tiểu bình thường lấy trong điều kiện đúng quy cách, thường là trong suốt. Nước tiểu sau một thời gian ngắn để lắng đọng sẽ tạo thành một đám mây vẫn đục lơ lửng ở giữa hay ở đáy ống đựng nước tiểu tuỳ thuộc tỷ trọng nước tiểu (dịch treo). Những vẩn đục trên là những tế bào bình thường của nội mô đường tiết niệu và các chất nhày urosomucoid. Nước tiểu bình thường sau khi tiểu tiện để trong lọ, đặt chỗ mát hay lạnh vẫn có thể tủa lắng xuống đáy lọ, đó có thể là cặn acid uric, muối urat natri hoặc phosphat. Hình 4
Có thể phân biệt dễ dàng hai loại muối này bằng cách đun nước tiểu gần sôi, muối urat tan và nước tiểu trong trở lại, trong khi cặn phosphat không tan trong môi trường trung tính và kiềm, chỉ tan trong môi trường acid nhẹ (thông số này không kèm trong que thử). Hình 5
Chú ý một số trường hợp nước tiểu lại đục lờ lờ như nước vo gạo có thể do hiện tượng kết tinh nước tiểu. Thực tế, trong nước tiểu bình thường chứa nhiều loại muối vô cơ, trong đó phần lớn là muối phosphat, oxalat, carbonat và thường các loại muối này hòa tan trong nước tiểu, nên khi nhìn mắt thường đại thể ta thường cho nước tiểu là trong suốt. Song, khi vì một nguyên nhân nào đó (ví dụ lượng nước hấp thu vào cơ thể giảm thiểu vả mồ hôi nhiều) dễ làm nước tiểu bị cô đặc và xuất hiện hiện tượng đục nước tiểu. Ngoài ra, khi nhiệt độ môi trường quá thấp so với thân nhiệt (mùa đông) thì thành phần các muối trong nước tiểu giảm độ hòa tan, quá bão hòa tách ra, làm cho nước tiểu lởn vởn đục. Trẻ em vì khả năng trao đổi chất trong cơ thể diễn ra khá mạnh, chất thải do thận bài tiết tương đối nhiều, nhất là khi ăn nhiều các loại rau xanh giàu muối oxalat, carbonat (rau dền, rau chân vịt, chuối tiêu, quýt, hồng), hàm lượng các loạị muối trong nước tiểu tăng lên, cộng thêm trẻ hiếu động ra mồ hôi nhiều, nước tiểu bài tiết giảm đi thì cô đặc nước tiểu càng lớn, nên nước tiểu đục. Hình 6
Nếu trẻ có nước tiểu đục kèm theo triệu chứng không hiếu động, không tham gia các trò chơi, chán ăn, lợm giọng, nôn ọe, phát sốt, đái rắt, đái buốt, kiểm tra thấy nước tiểu bất thường thì cần hướng đến chẩn đoán tiểu dưỡng chấp, triệu chứng tiểu này xuất hiện từng đợt, có khi lẫn máu do nhiễm giun chỉ bạch huyết. Một số ít hiếm gặp hơn là nước tiểu đục do mủ trong viêm thận-bể thận, viêm niệu đạo hoặc kết sỏi. Qua các phân tích trên, chúng ta cần lưu ý và phải phân biệt protein thật hoặc giả thông qua các phản ứng đặc biệt khác nhau. Độ sánh:Nước tiểu bình thường có độ sánh cao hơn nước một ít. Trong một số bệnh lý, tính chất của nước tiểu thay đổi do sự có mặt của một số chất như mủ, máu, protein, mucoprotein, dưỡng chấp. Những chất này làm cho nước tiểu sánh hơn và có nhiều bọt (thông số này không kèm trong que thử). * Các thông số thuộc về phân tích que thử nhanh (rapid strip) Tỷ trọng nước tiểu (SG_Specific gravity): Tỷ trọng nước tiểu là một thử nghiệm nhanh, thuận tiện và có thể tin tưởng, thử nghiệm này dùng để theo dõi khả năng cô đặc và pha loãng của thận, nhận biết sự mất nước và sự tác động tương hỗ thêm vào của thử nghiệm khác. Thử nghiệm này phản ánh nồng độ ion trong nước tiểu và tương quan chặt chẽ với phương pháp đo khúc xạ. Sự có mặt các cation, proton sẽ được giải phóng bởi một thuốc thử hỗn hợp, tạo thay đổi màu của chất chỉ thị bromthymol có màu xanh da trời sang màu xanh lá cây rồi sang màu vàng. Sự có mặt của protein nồng độ từ 100 đến 500 mg/dl hoặc các acetoacid, tỷ trọng nước tiểu đọc được có xu hướng tăng. Sự tăng tỷ trọng do nồng độ glucose > 1000 mg/dL (> 56 mmol/dL) không được thể hiện ở thử nghiệm này.Tỷ trọng nước tiểu thay đổi trong ngày. Nước tiểu 24 giờ ở người bình thường, người lớn, chế độ ăn hỗn hợp, đo ở điều kiện nhiệt độ 150C, tỷ trọng từ 1,005-1,030, trung bình là 1,080 ± 0,22. Trong một số trường hợp bệnh lý như đái đường tuỵ, tỷ trọng nước tiểu có thể tăng 1,030-1,040, nhưng trong đái tháo nhạt thì tỷ trọng lại giảm. Ví dụ, đạm niệu vết và tỷ trọng cao có thể là hoàn toàn bình thường, trong khi đạm niệu vết và tỷ trọng thấp luôn luôn là bất thường. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Phạm vi bình thường | Không cần làm thêm xét nghiệm gì | Đậm độ cao | Có thể do mất nước, cần kiểm tra lượng nước vào/ ra cơ thể. Thường là thông số tốt phản ảnh khả năng cô đặc của thận. | Đậm độ thấp | Tình trạng kéo dài thường gặp trong suy thận. | Khoảng biến thiên | Từ 1,000-1,030. |
Xác định tỷ trọng nước tiểu dựa trên sự giải phóng proton H+ từ polyacid với sự có mặt các cation có trong nước tiểu. Proton H+ được giải phóng gây ra sự thay đổi màu của chất chỉ thị bromothymol bleu từ xanh đến xanh lục rồi tới vàng. Cường độ màu tỷ lệ với tỷ trọng niệu. Tỷ trọng nước tiểu bình thường khoảng 1,01-1,020 (nước tiểu 24 giờ của người lớn ăn uống bình thường có tỷ trọng từ 1,016-1,022). Xét nghiệm này nhạy với các giai đoạn sớm của giảm chức năng thận, nhưng một kết quả bình thường cũng không thể loại trừ các bệnh lý khác của thận. Nó không chính xác trong các trường hợp mất cân bằng nước-điện giải nghiêm trọng, chế độ ăn kiêng ít protein, chế độ ăn nhạt, các bệnh gan mạn tính, hay phụ nữ mang thai. pH nước tiểu: Nước tiểu bình thường có tính acid nhẹ, thường thấp nhất vào lúc sáng sớm và cao nhất sau bữa ăn. Giấy trên thanh thử chứa các chất chỉ thị đỏ methyl, phenolphtalein và xanh bromthymol. Giá trị pH thường thấy ở những người khoẻ mạnh nằm ở khoảng 5-6, trung bình 5,8 (dao động 4,8-8,5). Độ acid của nước tiểu là do sự có mặt acid tự do (acid acetic, acid uric, phosphat acid và một lượng quan trọng những hợp chất acid dưới dạng muối amoni). Quá trình này gắn liền với vai trò của thận trong sự duy trì năng lượng acid-base. pH nước tiểu có thể là một xét nghiệm tầm soát hữu ích trong chẩn đoán bệnh thận, bệnh đường hô hấp, ối loạn chuyển hóa và chế độ điều trị đặc hiệu như sodium bicarbonat. Hình 6
pH nước tiểu thay đổi theo chế độ ăn, nếu ăn nhiều rau thì nước tiểu ít acid hơn, có khi pH trung tính hoặc hơi kiềm, vì thức ăn thực vật có nhiều muối kiềm. Chế độ ăn nhiều thịt, pH nước tiểu càng về acid, lao động mạnh về cơ bắp, hoạt động thể dục thể thao cũng làm tăng độ acid trong nước tiểu. Trong các trường hợp bệnh lý, pH nước tiểu có thể thay đổi: -Trong viêm bể thận, viêm bàng quang thì pH nước tiểu thường kiềm do phản ứng lên men amoniac; -Bệnh nhân đái tháo đường nặng thể cetonic niệu, pH nuớc tiểu acid do bài xuấtacetoacetic, hydrobutyric ở dạng tự do và dạng muối amoni; -Trong các bệnh dạ dày, độ acid trong nước tiểu thay đổi ngược với độ pH acid của dịch vị. Bệnh nhân viêm dạ dày đa acid, nước tiểu sau bữa ăn có pH kiềm; bệnh nhân ung thư dạ dày pH nước tiểu hầu như không thay đổi ở các thời điểm trong ngày. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Phạm vi bình thường | 4,8 - 8,0; Có thể biến thiên lớn từ 4,5 - 9,0 | Acid mạnh (pH < 4) | Có thể tiểu đường không kiểm soát, tình trạng đói lâu ngày, mất nước, cần kiểm tra glucose và ketone niệu. | Kiềm (pH > 8) | Một dẫn chứng của mẫu nước tiểu quá cũ, không phù hợp cho xét nghiệm khác nữa. Kiểm tra nhiễm trùng đường tiểu, dùng các thử nghiệm nitrit, bạch cầu, máu và protein. |
Bạch cầu (LEU_Leucocyte): Xét nghiệm này thể hiện sự có mặt các enzym esterase của các bạch cầu hạt. Các enzym esterase có tác dụng thuỷ phân este của indoxyl và indoxyl được giải phóng sẽ phản ứng với muối diazonium để cho một sản phẩm màu tím. Phản ứng này không bị ảnh hưởng bởi sự có mặt các vi khuẩn, Trichomonas spp., hoặc hồng cầu trong nước tiểu. Formaldehyt (một chất làm ổn định) và các thuốc có Imepenem và acid clavulanic có thể gây phản ứng dương tính giả. Nếu bản thân nước tiểu có màu (ví dụ sự có mặt của bilirubin hoặc nitrofurantoin), phản ứng màu có thể tăng cường do thêm màu vào. Chỉ số cho phép: 10-25 Leu/UL. Sự bài tiết protein trong nước tiểu vượt quá 500 mg/dl và glucose vượt quá 2 g/dl có thể làm giảm cường độ màu của phản ứng; cũng có thể gặp tình trạng này khi sử dụng cephalexin và gentamycin với các liều hàng ngày cao. Nhiễm trùng đường tiểu thường sinh ra tế bào mủ. Những tế bào này giải phóng ra esterase, men này phản ứng với thuốc thử ngấm vào trong que nhúng. Sự hiện diện của bạch cầu trong nước tiểu là một chỉ điểm của nhiễm trùng bàng quang hoặc nhiễm trùng thận tiết niệu. Cần lưu ý về kết quả dương tính giả có thể được ghi nhận nếu bạch cầu bị ly giải bởi xét nghiệm vi thể trước đó. Hình 8
Với xét nghiệm bạch cầu, tỷ lệ phát hiện ở mẫu nước tiểu sáng sớm đầu tiên và mẫu nước tiểu sau 2 giờ đi tiểu cho kết quả tương tự nhau trong nhóm bệnh nhân nhiễm trùng đường tiết niệu (84,94% và 81,72%). Riêng ở nhóm điều tra ngẫu nhiên, tỷ lệ này khoảng 8,11%. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Âm tính | Nếu biểu hiện lâm sàng rõ, thì kết quả này phải được bổ sung thêm các xét nghiệm vi thể, nuôi cấy. Cần lưu ý xét nghiệm máu, đạm, nitrit. | Dương tính | Phản ánh nhiễm trùng đường tiểu, cần theo dõi tiếp các thử nghiệm như cấy nước tiểu,… | Độ đặc hiệu | Phản ứng phân hóa tố đặc hiệu. | Độ nhạy cảm | Từ 5-15 tế bào/mL nước tiểu lâm sàng |
Nitrit (NIT_Nitrite): Bình thường nitrit không có trong nước tiểu, nó được tạo thành do vi khuẩn chuyển hóa nitrat của thức ăn thành nitrit. Mẫu nước tiểu lấy đúng quy cách phải là nước tiểu đã ở trong bàng quang 4 giờ trước khi kiểm tra, đủ thời gian để nitrat chuyển hóa thành nitrit. Xét nghiệm này dựa trên nguyên tất cả xét nghiệm Griess đặc hiệu với nitrit. Phản ứng thể hiện sự có mặt của nitrit, nên có thể phát hiện một cách gián tiếp các vi khuẩn tạo nên nitrit có trong nước tiểu bằng sự đổi màu từ hồng sang đỏ của que thử. Ngay cả màu hồng nhạt cũng là một chỉ dẫn có ý nghĩa về sự có mặt vi khuẩn trong nước tiểu. Chỉ số cho phép: 0.05-0.1 mg/dL. Qua một nghiên cứu 3.886 người thuộc các nhóm bệnh nhân để đánh giá nhiễm trùng đường tiểu, các tác giả có nhận xét rằng với xét nghiệm nitrit, dùng mẫu nước tiểu lúc sáng sớm đầu tiên cũng như mẫu nước tiểu lưu ở bàng quang khoảng 4 giờ sẽ tăng tỷ lệ phát hiện nhiễm trùng (tỷ lệ là 82,79% so với 67,74% trong các bệnh nhân bị nhiễm trùng đường tiểu, nếu lấy mẫu sau 2 giờ đi tiểu và 5,4% so với 1,35% trong các bệnh nhân ở nhóm điều tra ngẫu nhiên (140 người) nếu lấy mẫu nước tiểu ở bàng quang dưới 4 giờ. Chú ý các kết quả âm tính giả thường do thức ăn không đủ nitrat, thiếu sự hiện diện của vi trùng gram dương hoặc nước tiểu ở trong bàng quang không đủ thời gian. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Âm tính | Thông thường nó chỉ ra không có sự hiện diện vi khuẩn gram âm. Kết quả âm tính phải luôn được xem xét trong bệnh cảnh lâm sàng cùng với kết quả xét nghiệm khác. | Dương tính | Xác nhận sự nhiễm trùng đường tiểu, cần gởi mẫu bệnh phẩm để làm thêm các xét nghiệm khác nữa. | Độ nhạy | 13-22mmol/L ion nitrit, tương đương với 105 vi khuẩn /mL |
Proteine (PRO_Protein): Nước tiểu bình thường chứa một lượng nhỏ albumin và globulin, nhưng thông thường số lượng này thấp đủ để không tạo ra phản ứng dương tính trên giấy nhúng nước tiểu. Khi xét nghiệm có protein niệu, điều quan trọng là nước tiểu phải được cô đặc hoàn chỉnh, nước tiểu của lần đi tiểu đầu tiên vào buổi sáng là tốt nhất. Xét nghiệm này dựa trên nguyên tắc về sự thay đổi nồng độ protein phụ thuộc một chất chỉ thị pH. Chất chỉ thị này đặc biệt nhạy với albumin, thuốc sốt rét quinin, quinidin, chloroquin, hay tolbutamid và sự tăng pH (đến 9) không ảnh hưởng đến xét nghiệm này. Hình 9
Kết quả dương tính giả có thể thấy sau khi tiêm polyvinylpyrolidon (chất thay thế máu) hoặc khi lọ đựng nước tiểu chứa chlorhexidin hoặc chứa các vết của các chất tẩy có nhóm amoni bậc bốn. Chỉ số cho phép: trace (vết: không sao); 7.5-20mg/dL hoặc 0.075-0.2 g/L. Cần chú ý rằng kết quả dương tính có thể do nước tiểu bị kiềm hóa mạnh và bị pha tạp, hoặc dung dụng cụ chứa nước tiểu bị ô nhiễm bởi phức hợp nitơ bậc 4. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Âm tính | - Que nhúng nhạy với albumin hơn, do đó khi âm tính, không lọai trừ sự hiện diện globulin, hemoglobin, thể Bence Jones protein hoặc mucoprotein; - Nếu một xét nghiệm microalbumin được yêu cầu, sử dụng thử nghiệm microbumin test hoặc microalb là cần thiết vì độ nhạy của que thử không đủ. | Dương tính | -Một xét nghiệm protein niệu (+) cần xác định, tiểu đạm thoáng qua thì ít quan trọng; -Xét nghiệm đạm niệu (+) kéo dài chứng tỏ có bệnh thận, nhiễm trùng đường tiểu, cao huyết áp, tiền sản giật, suy tim sung huyết; -Các thử nghiệm nitrit, máu, bạch cầu luôn luôn cần được luu ý trong trường hợp này. | Độ nhạy | 0,15-0,30g/Lalbumin |
Glucose (GLU_Glucose): Glucose bình thường không có trong nước tiểu, nếu có là do đường huyết quá ngưỡng thận hoặc sự hấp thu đường của thận bị giảm và có thể chỉ ra các tình trạng bệnh lý thuộc tiểu đường, viêm tụy cấp, hội chứng Cushing. Xác định glucose trong nước tiểu được dựa trên một phản ứng đặc hiệu glucoseoxidase. Xét nghiệm này không bị ảnh hưởng bởi tỷ trọng, pH nước tiểu cũng không bị ảnh hưởng bởi sự có mặt của thể cetonic trong nước tiểu, ảnh hưởng của acid ascorbic đã được loại trừ một cách hiệu quả để nồng độ glucose là 100 mg/dl hoặc cao hơn cũng không bị kết quả âm tính giả ngay cả ở nồng độ acid ascorbic cao. Chỉ số cho phép: 50-100 mg/dL hoặc 2.5-5 mmol/L. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Âm tính | Bình thường, với một bệnh nhân tiểu đường cần xét nghiệm thêm glucose máu để đảm bảo bệnh nhân đó không bị hạ đường huyết. | Dương tính | Với kết quả này, cần làm thêm xét nghiệm đường huyết và các xét nghiệm khác để xác định nguyên nhân. |
Hình 10
Cetonic (KET_Ketones): Cetonic là thành phần bất thường trong nước tiểu và là sản phẩm của chuyển hóa của acid béo, hoặc sinh ra do nhịn ăn hoặc do tiểu đường không kiểm soát. Nước tiểu bình thường chứa khoảng vài mg acid acetic/ lít nước tiểu và vài trăm mg acid beta hydrobutyric. Chỉ số cho phép: 2.5-5 mg/dL hoặc 0.25-0.5 mmol/L Các chất cetonic trong nước tiểu tăng trong các rối loạn chuyển hoá glucid, đói lâu ngày, tăng chuyển hoá glucid, sau một số trường hợp dùng thuốc gây mê.Xét nghiệm dựa vào nguyên tắc phản ứng legal và có độ nhạy với acetoacetic hơn là với aceton. Các chất phenylceton và phtalein tạo nên màu đỏ trên que thử, do đó chúng rất khác với màu tím tạo nên bởi các thể cetonid và điều này có thể dẫn đến kết quả dương tính giả. Các chất captopril, mesna (muối natri của acid 2 mercapto-ethanesulphopnic) và chất chứa các nhóm sulfhydryl có thể gây dương tính giả.Một điều quan trọng là trong xét nghiệm nước tiểu phải thử cả glucose và ketone để tránh bỏ sót những trường hợp ketone niệu dương tính mà glucose thì âm tính; Dương tính giả có thể xảy ra với phenolphtalein, brom-sulphtalein và các chất chuyển hóa của L-dopa. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Âm tính | Bình thường, không cần làm thêm xét nghiệm gì khác. | Dương tính | Nếu nghi ngờ hoặc đã xác định là bệnh tiểu đường cần điều trị gấp để ngừa tai biến hôn mê. | Độ nhạy | 0,5-1mmol/L acetoacetic acid không phản ứng với beta-hydroxy-butyrate. |
Urobilinogen (URO_Urobilinogen): Xét nghiệm này dựa trên nguyên tắc muối diazonium phản ứng với urobilinogen để tạo nên một chất -azo có màu đỏ. Bình thường urobilinogen có trong nước tiểu lượng thấp, lượng urobilinogen tăng có thểlà do các bất thường của gan, hồng cầu vỡ quá nhiều, thiếu máu tán huyết. Kết quả thử nghiệm urobilinogen phải được xem xét cùng với kết quả thử nghiệm bilirubin để góp phần cho chẩn đoán phân biệt. Chỉ số cho phép: 0.2-1.0 mg/dL hoặc 3.5-17 mmol/L. Hình 11
Phản ứng rất đặc hiệu, không bị ảnh hưởng bởi yếu tố nhiễu. Phản ứng không màu hoặc có màu nhạt hơn màu của nồng độ urobilinogen là 17mmol/L, thường thấy trong những mẫu bình thường. Kết quả âm tính giả có thể xuất hiện nếu nước tiểu để quá lâu. Dương tính giả có thể do màu sắc không điển hình gây ra bởi para-aminosalicylic acid. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Giới hạn bình thường (0.1-1 EU/dL) | Không cần làm thêm xét nghiệm gì, nếu urobilinogen biến mất hoàn toàn khỏi nước tiểu, có thể tắc nghẽn đường mật. | Dương tính (trên 1 EU/dL) | Cần xem thêm các xét nghiệm khác. |
Bilirubin (BIL_Bilirubine): Sự hiện diện của bilirubin trong nước tiểu cho thấy bệnh gan hoặc bệnh của hệ dẫn mật có vấn đề và thông số này xuất hiện trước khi những triệu chứng bất thường khác xuất hiện. Dựa trên nguyên tắc kết hợp bilirubin với muối diazonium sẽ cho màu đỏ. Ngay cả nước tiểu cho phản ứng màu hồng nhạt nhất cũng là phản ứng (+), nghĩa là có tình trạng bệnh lý. Các thành phần khác nước tiểu chỉ cho màu vàng với thuốc thử này. Lưu ý rằng nếu nước tiểu để lâu sẽ cho kết quả âm tính giả. Phenothiazid và chlorpromazid có thể cho kết quả dương tính giả. Chỉ số cho phép: 0.4-0.8 mg/dL hoặc 6.8-13.6 mmol/L. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Âm tính | Bình thường không cần làm thêm xét nghiệm gì khác | Dương tính | Cần làm thêm urobilinogen để giúp chẩn đoán phân biệt | Độ nhạy cảm | 7-14 mmol/L bilirubin |
Hồng cầu (BLO_Blood):Sự hiện diện của máu trong nước tiểu gợi ý bệnh thận hay hệ tiết niệu trầm trọng hoặc nhẹ hơn là nhiễm trùng đường tiểu. Hemoglobin và myoglobin xúc tác cho sự oxy hoá chất chỉ thị hydroperoxyt hữu cơ chứa trong giấy que thử. Các giá trị được in ra thể hiện số hồng cầu nguyên vẹn (blood intact). Chỉ số cho phép: 0,015-0,062 mg/dL hoặc 5-10 Ery/UL. Các giá trị trong khoảng 5-10 hồng cầu/mL cũng được áp dụng cho số lượng hemoglobin được giải phóng từ 5-10 hồng cầu/mL. Các mức 5-10 hồng cầu hoặc cao hơn, sự tan huyết nhiều có thể dẫn đến giá trị cao hơn các nồng độ tương ứng của số lượng các hồng cầu nguyên vẹn, acid ascorbic hầu như không ảnh hưởng đến giá trị kết quả này. Hình 12
Một ưu điểm rất lớn cho que nhúng thử nước tiểu là cho kết quả xét nghiệm vi thể và có khả năng phát hiện cả hồng cầu bị vỡ. Các kết quả dương tính giả có thể do dụng cụ chứa nước tiểu bị nhiễm bởi thuốc sát trùng, hoặc do rửa vùng quanh hậu môn bằng povidon và nước tiểu để quá lâu. Kết quả | Ý nghĩa lâm sàng | Âm tính | Bệnh nhân có yếu tố nguy cơ phải được xét nghiệm lặp lại để bảo đảm rằng sự chảy máu cách quãng được phát hiện. | Dương tính | Các xét nghiệm cần làm thêm phụ thuộc vào kết quả xét nghiệm khác. Kết quả (+) kéo dài không nên xem thường, nhất là người trên 40 tuổi vì có thể ung thư đường niệu. | Độ nhạy | Mức 5-20 hồng cầu/ mL hoặc 150-620/mL haemoglobin (hoặc myoglobin) |
Acid ascorbic (ASC_Acid Ascorbic): Khi nước tiểu có độ acid hoặc không thì kết quả sẽ thể hiện âm tính hay dương tính. Chẳng hạn, từ 20 mg/dL là tương ứng dương tính. Acid ascorbic là một vitamin hòa tan trong nước, rất cần thiết cho cơ thể để giúp hình thành collagen trong xương, sụn, cơ và các mạch máu, cũng như hỗ trợ cơ thể trong việc hấp thụ chất sắt, tăng cường sức đề kháng chống nhiễm khuẩn. Vitamin C có nhiều trong các loại rau quả tươi như nước cam, chanh, quýt, bưởi và có hàm lượng cao trong rau xanh, đặc biệt là bông cải xanh, khoai tây, rau cải, cà chua và nhiều loại rau, quả khác. Trường hợp bệnh nhân có lượng cao trong nước tiểu có thể do dùng nhiều thức ăn có hàm lượng vitamin C cao nên cơ thể sau khi chuyển hóa sẽ đào thải qua nước tiểu, do đó chị không cần phải lo lắng về vấn đề này.Acid ascorbic là loại chất thải trong nước tiểu để đánh giá bệnh về thận. Chỉ số cho phép từ 5-10 mg/dL hoặc 0,28-0,56 mmol/L. Đối với máy phân tích nước tiểu 14 thông số mới hiện nay có điểm mới là ngoài các thông số ở trên ra, máy còn có ưu điểm phân tích các thông số albumin, creatinine, tỷ lệ albumin/ creatinin và tỷ lệ protein/ creatinin nước tiểu để đánh giá thấu đáo hơn về chức năng thận. Hình 12
Creatinine Creatinin là một sản phẩm thải hóa học thường lọc và đào thải qua con đường thận.Khi chức năng thận có vấn đề, lượng creatinine sẽ tích tụ lại trong cơ thể. Xét nghiệm creatinine trong nước tiểu đánh giá thận có làm việc tốt hay không. Thử nghiệm đo nồng độ creatinine nước tiểu 24 giờ là thường được chỉ định. Vì thể tích nước tiểu 24 giờ giúp đánh giá sự bài niệu, nên không có liên quan đến đánh giá nguy cơ sức khỏe. Nếu creatinine trong cơ thể cao có thể là một dấu hiệu bệnh lý thận. Creatinine là một loại chất thải sinh ra bởi chuyển hóa cơ. Khi chức năng thận hoạt động bình thường, chúng giúp lọc và đào thải các chất thải khác ra khỏi máu. Các sản phẩm thải này bị loại khỏi cơ thể thông qua quá trình bài xuất nước tiểu. Thầy thuốc lâm sàng có thể sử dụng mẫu nước tiểu ngẫu nhiên để đánh giá creatinine. Tuy nhiên, xét nghiệm thường quy nhất vẫn là mẫu nước tiểu 24 giờ. Albumin: Albumin là một loại protein, thuật ngữ albuminuria chỉ ra tình trạng có quá nhiều protein trong nước tiểu, đôi khi còn gọi là microalbumin niệu, chỉ số này chỉ ra có một lượng tương đối protein trong nước tiểu. Protein niệu đại thể hay còn gọi là "macroalbuminuria" chỉ ra lượng > 300mg albumin có trong nước tiểu mỗi ngày.Albumin tồn tại trong nước tiểu dai dẳng có nghĩa là chức năng thận tổn thương và bắt đầu ly giải lượng albumin vào nước tiểu. Hai thử nghiệm albumin dương tính kéo dài nhiều tuần gọi là albumin tồn tại dai dẳng, cần lưu ý đây là dấu hiệu đầu tiên của bệnh thận do đái tháo đường. Các nguyên nhân khác gây albumin niệu là cao huyết áp, suy tim xung huyết, hội chứng chuyển hóa, hay tổn thương thận trong hội chứng thận hư. Ngay cả khi không có các bệnh này, vẫn có một tỷ lệ albumin cao hơn mức bình thường trong nước tiểu được xem là các yếu tố nguy cơ đối với bệnh tim mạch. Hình 13
Mặc dù sàng lọc albumin trong nước tiểu của các cá nhân không có triệu chứng gì có thể phát hiện bệnh thận sớm, đo lượng albumin có thể xác định một số chứ không phải tất cả bệnh nhân có bệnh thận. Song, các bệnh nhân bị đái tháo đường và/ hoặc bệnh thận mạn tính sẽ tiến triển nhanh đến suy thận. Qua nghiên cứu, có khoảng 8% người lớn có microalbumin niệu (bài tiết 30-300 mg albumin/24 giờ) và 1% có macroalbumin niệu (bài tiết hơn 300 mg albumin/24 giờ). Albumin được phát hiện ở 1/3 người đái tháo đường, 1/7 người bị huyết áp cao và 1/6 người cao hơn 60 tuổi. Mọi người đái tháo đường type I và type 2 trong độ tuổi 12-70 nên kiểm tra nước tiểu tìm albumin ít nhất 1 lần một năm. Hướng dẫn khuyến cáo sàng lọc albumin trên các bệnh nhân có nguy cơ bệnh thận mạn (gồm đái tháo đường, cao huyết áp, bệnh hệ thống, tuổi cao trên 60 và gia đình có người bị suy thận). Nếu dương tính, kết quả nên xác định lại xét nghiệm. Nếu một mẫu nước tiểu đơn thuần bất kỳ có trên 30 mg albumin/g creatinine được coi là dương tính. Đối với mẫu nước tiểu 24 giờ, nếu từ 30-300 mg albumin có nghĩa là albumin niệu. Tỷ lệ albumin/creatinine (ACR_urine albumin to creatinine ratio): Tỷ lệ albumin/creatinine được coi là microalbumin niệu, giúp xác định bệnh thận có thể do đái tháo đường. Nếu bệnh thận được chẩn đoán sớm trên bệnh nhân đái tháo đường, điều trị sẽ thích hợp và giám sát chặt chẽ. Do vậy, tỷ lệ ACR nên kiểm tra sớm ngay sau khi chẩn đoán xác định đái tháo đường, nên kiểm tra thường xuyên và theo dõi tỷ lệ này nếu chúng tăng có ý nghĩa. Nếu tỷ lệ ACR tăng nhẹ có thể là bệnh thận giai đoạn sớm. Nếu nồng độ ACR rất cao chỉ ra bệnh lý thận nặng. Giá trị ACR rất thấp có thể chức năng thận bình thường. Nếu đái tháo đường được quản lý tốt, dễ dàng kiểm soát các biến chứng. Kết quả đo bằng mg protein đào thải ra nước tiểu 24 giờ. Kết quả phiên giải như sau: -Nếu < 30 mg protein: Bình thường; -Nếu ≥ 30 - 300 mg protein: Microalbumin niệu và có thể chỉ ra bệnh thận sớm; -Nếu > 300 mg protein: Macroalbumin niệu và chỉ ra bệnh thận tiến triển. Ngoài ra, tỷ lệ ACR được coi là loại xét nghiệm phát hiện lượng nhỏ albumin trong nước tiểu. Protein và microalbumin niệu là hai dấu hiệu liên quan đến bệnh thận tiến triển, cũng như các yếu tố nguy cơ tim mạch và tử vong. Tỷ lệ protein/ creatinine niệu (Urine protein creatinine ratio_PCR): Bình thường: Người lớn: tỷ lệ PCR < 15 mg/mmol;Trẻ em dưới 18 tuổi, PCR < 20 mg/mmol. -Trên phụ nữ mang thai, kết quả PCR nếu ≥ 30 mg/mmol là mức protein cao có ý nghĩa. PCR hơn ACR nên cân nhắc trên phụ nữ mang thai và xem thử có phải là protein không phải loại albumin? -Chỉ định tính tỷ lệ ACR và PCR trong các trường hợp đái tháo đường, cao huyết áp, tổn thương thận cấp, bệnh tim mạch (thiếu máu cơ tim, suy tim mạn, bệnh mạch máu ngoại vi), bệnh mạch máu não, bệnh lý ống thận, phì đại tuyến tiền liệt, bệnh hệ thống đa cơ quan liên quan đến thận như lupus ban đỏ, bệnh thận giai đoạn cuối, nhiễm trùng cơ hội có đái máu, giám sát bệnh nhân dùng thuốc. Quy trình đo mẫu nước tiểu bằng máy tự động Sử dụng nước tiểu tươi hay mới lấy, không ly tâm. Trộn kỹ mẫu nước tiểu. Không để mẫu nước tiểu đứng yên quá 2 giờ trước khi thử, điều này sẽ cho kết quả giả tạo một số thông số. Chúng ta có thể chọn một trong hai cách đo: Cách đo bình thường (Normal mode): Cách này đo mỗi mẫu trung bình là 30-36 giây, nên có thể đo khoảng 100-120 mẫu trong 1 giờ. Cách đo bình thường được thực hiện dựa trên hướng dẫn của mỗi hãng, các máy Clinitek100 của Bayer đo đơn giản hơn, quy trình như sau: -Màn hình hiện chữ “ready” thể hiện máy đang ở chế độ đo bình thường, đèn báo hiệu màu đỏ, ấn nút “start”, một tiếng ‘bíp’ xuất hiện và màn hình hiện chữ ‘prepare strip’, lấy một thanh thử ra khỏi hộp; -Sau khoảng 4 giây, một tiếng ‘bip’ thứ 2 xuất hiện, màn hình hiện chữ ‘diptrip 1’, đèn báo hiệu màu xanh lá cây nhấp nháy, nhúng sâu que thử vào mẫu nước tiểu số 1 một cách nhanh chóng (tối đa 1 giây). Khi rút que thử, chú ý gạt bớt nước tiểu thừa bám vào mép bên que thử; -Khi màn hình hiện chữ ‘insert strip1’, đèn màu xanh, đặt que thử vào máy; -Sau khoảng 20 giây, que thử 1 được máy chuyển đến vị trí đo và màn hình hiện chữ ‘please wait’, đèn báo hiệu màu đỏ, đầu đo di chuyển qua và kiểm tra que thử nếu que thử nếu que thử nằm đúng vị trí đo. Sau đó màn hình hiện chữ ‘strip2, tiếp tục lặp lại quá trình này để đo que thử với mẫu 2 và các mẫu tiếp theo; -Que thử thứ 1 được đo khoảng 60 giây sau khi nhúng vào mẫu nước tiểu. Máy sẽ tự động kiểm tra có mặt của thanh thử vị trí đo, khi đo xong thì các kết quả sẽ tự động in ra. Cách đo nhanh (Fast mode): Việc đo nhanh được thực hiện khi số mẫu nước tiểu không nhiều, mỗi mẫu đo mất 12 giây, như vậy có thể đo 300 mẫu /giờ. Máy ở cách đo bình thường khi chữ ‘ready’ xuất hiện. Ấn phím ‘set’ để vào cách đo nhanh, màng hình sẽ chuyển sang chữ ‘Fast mode’<start>. Sau đó tiến hành đo như sau: -Ấn nút một tiếng “bíp” xuất hiện và màn hình hiện chữ ‘prepare strip’, lấy một que thử ra khỏi hộp. -Sau khoảng 4 giây một tiếng bíp thứ 2 xuất hiện, màn hình xuất hiện chữ Diptrip1 và đèn xanh lá cây nhấp nháy. Nhúng que thử số 1 vào nước tiểu số 1, nhanh chóng rút ra và nhớ gạt bỏ bớt phần nước tiểu thừa; -Khi chữ ‘insert strip1’ xuất hiện, gài que thử số 1 vào vị trí chờ của máy, đèn xanh vẫn sáng. Sau 12 giây một tiếng bíp xuất hiện, màn hình xuất hiện ‘diptrip 2’ và đèn xanh nhấp nháy. Nhúng que thử thứ 2 vào mẫu nước tiểu 2 và quá trình thực hiện tương tự như trên; -Sau đó cứ theo các lệnh trên màn hình và tiếng bíp để nhúng một thanh thử mới vào. Sau khi mẫu nước tiểu được đo xong, số liệu sẽ tự động in ra. Việc in có thể được dừng lại bằng cách bấm vào nút hoặc được tiếp tục bằng cách ấn nút , hoặc lại ấn nút <start> để ra khỏi chương trình in; -Khi không còn que thử nào đo nữa, cách đo nhanh sẽ bị ngắt quãng với sự xuất hiện dòng chữ . Muốn đo thêm nữa lập lại quá trình trên. Một số chú ý: dù dòng mày nào đi chăng nữa, khi mua về sử dụng cũng nên chú ý đặc tính kỹ thuật như: năng suất máy bao nhiêu test/giờ, nguồn điện bao nhiêu? Môi trường khả hoạt (ví dụ máy của hãng Bayer có môi trường khả hoạt 18-300C, độ ẩm tương đối 20-85% và môi trường tối ưu là 22-260C và độ ẩm tương đối 30-60%) để tạo ra một điều kiện xét nghiệm phù hợp nhất, mang lại hiệu quả cao nhất. Hình 15
Đánh giá kết quả của mẫu thử trên lâm sàng Sau khi que thử được tiếp nhận bởi máy phân tích nước tiểu, nó sẽ được đọc bởi tia sáng khúc xạ. Các kết quả sẽ được in trên giấy nhiệt, dưới dạng báo cáo với các thuật ngữ như ‘neg.’(âm tính), ‘pos.’ (dương tính) hoặc giá trị nồng độ. Căn cứ vào các giá trị kết quả ghi trên băng giấy, có thể biết được tình trạng bình thường hay bệnh lý của mẫu nước tiểu. Trong trường hợp không có máy phân tích nước tiểu, có thể xác định các kết quả trên que thử sau khi nhúng que thử vào nước tiểu cần phân tích bằng mắt trước, mỗi giá trị được thể hiện tương ứng với giới hạn nồng độ xác định. Song, khi một kết quả có sự khác biệt về độ nhạy của mắt và của hệ thống quang học của máy thì sẽ không có sự giống nhau giữa kết quả đọc bằng mắt và kết quả đọc bằng máy. Do kết quả bị ảnh hưởng của một số thuốc hoặc chất chuyển hoá của chúng chưa được hiểu biết một cách sáng tỏ, nên trong trường hợp nghi ngờ, cần lặp lại xét nghiệm, sau khi ngừng sử dụng các thuốc đó một thời gian. Chẳng hạn, một lượng lớn acid ascorbic được đào thải theo nước tiểu có thể gây nên giảm một cách giả tạo hoặc dẫn đến các kết quả âm tính giả đối với nitrit và bilirubin. Một số thuốc có thể biến thành màu đỏ trong môi trường acid, điều này có thể dẫn đến dương tính giả hoặc làm biến đổi màu đỏ trên que thử đối với nitrit, protein, urobilinogen vàbilirubin. Xét nghiệm viên chỉ sử dụng các lọ được rửa kỹ, sạch để đựng nước tiểu. Việc đọc kết quả dương tính giả đối với các xét nghiệm máu và glucose nước tiểu có thể do chất tẩy rửa trong lọ đựng mẫu nước tiểu cần xét nghiệm. Không được thêm các chất bảo quản vào mẫu nước tiểu, không được để mẫu nước tiểu tiếp xúc với ánh sáng mặt trời vì ánh sáng sẽ oxy hoá bilirubin và urobilinogen, dẫn đến kết quả thấp một cách giả tạo đối với 2 thông số này. Với các giải thích chi tiết từng thông số về mặt cảm quang, về mặt bán định lượng ở trên, hy vọng sẽ giúp các đồng nghiệp xét nghiệm cũng như bác sỹ lâm sàng phần nào giải thích khi bệnh nhân cần đến.
|