|
Paul Hermann Muller (1899-1965) |
Paul Hermann Muller (1899-1965) với công trình đạt giải thưởng Nobel về thuốc DDT
Paul Hermann Muller sinh ra tại Olten, Solothurn, Thụy sĩ vào ngày 12 tháng giêng năm 1899 ông bắt đầu làm việc năm 1916 với vai trò như một trợ lýphòng thí nghiệm và sau đó làm trợ lý hóa học với kiến thức thực hành. Ông đươc nhận vào học đại học năm 1918 lấy bằng tiến sĩ năm 1925, bắt đầu nghề nghiệp của mình với J. R. Geigy A.G., Basle,vào tháng 5 năm 1925 ông trở thành Phó viện trưởng viện nghiên cứu các hóa chất bảo vệ thực vật (Scientific Research on Substances for Plant Protection) vào năm 1946. Müller nghiên cứu các thuốc nhuộm từ thực vật và các vật liệu thuộc da tự nhiên, thuộc da tổng hợp và hóa chất diệt côn trùng. Bốn năm làm việc tận tụy đã tổng hợp được chất dichlorodiphenyltrichloroethane (DDT) vào năm 1939 và được đăng ký bản quyền cũng như chứng nhận sở hữu trí tuệ vào năm 1940. Mặc dù DDT lần đầu tiên được tổng hợp năm 1874 bởi một dược sĩ người Áo tên là Othmar Zeidler, nhưng ông ta không khảo sát những đặc tính của chất mới mà đăng tải quy trình tổng hợp đơn giản hơn. Những thử nghiệm thực địa về tái tổng hợp hóa chất bởi Muller chỉ ra nó có hiệu quả chống lại một loạt loại côn trùng, bao gồm ruồi nhà, chấy rận,bọ cánh cứng Colorado và muỗi. Công ty Geigy bắt đầu đưa ra thị trường hóa chất này vào năm 1940-1941, với 2 sản phẩm diệt côn trùng Gesarol spray 5% và Neocid 3%. Đến thời điểm đó thì thuốc này quá quen thuộc với toàn cầu với tên gọi là DDT, tên DDT lần đầu tiên áp dụng tại Bộ Kế hoạch và cung ứng Anh quốc năm 1943. DDT được bổ sung và danh mục hóa chất cung ứng cho quân đội Mỹ vào tháng 5 năm 1943. Đến tháng 8 năm 1943, Gahan và cộng sự đã tiến hành lâm sàng đầu tiên DDT như một hóa chất phun diệt côn trùng tồn lưu chống lại muỗi. thử nghiệm lần tiên tại thực địa với thử tồn lưu DDT là áp dụng phun mặt trước của tất cả các nhà dân trong cộng đồng để đánh giá hiệu quả của nó với trung gian truyền bệnh sốt rét-muỗi Anopheles và đánh giá hiệu quả lên tỷ lệ mắc mới sốt rét ở Ý vào mùa xuân năm 1944. Trong suốt thế chiến thứ 2, khi dùng pyrethrum thì không đủ cung cấp theo nhu cầu lúc đó, DDT đã chứng minh được giá trị quan trọng của chúng trong cuộc chiến chống lại bệnh sốt Rickettsia và sốt rét. Trong các vùng lưu hành bệnh sốt rét, phun DDT 2 lần mỗi năm trong vách/ tường nhà cóthể ngăn ngừa được muỗi lây truyền bệnh sốt rét. Phun tồn lưu trong nhà (Indoor residual insecticide spraying) góp phần loại trừ hoặc thanh toán bệnh sốt rét ở nhiều quốc gia, bao gồm cả Mỹ khi đó trong suốt thời gian những năm 1950s – 1970s. Những hợp chất này cũng mang lại giá trị rất lớn trong lĩnh vực côn trùng nông nghiệp và chúng dẫn đường cho các nghiên cứu tiếp theo cho các hóa chất diệt côn trùng khác. Paul Muller nhận giải thưởng Nobel về sinh lý học và y học năm 1948 cho công trình của ông trong: “Khám phát chất DDT hiệu lực cao đónh vaitrò như một chất độc tiếp xúc chống lại một vài loại động vật chân đốt". Muller kết hôn với Friedel Rüegsegger năm 1927 và có hai con trai,Heinrich (sinh năm1929) và Niklaus (sinh năm 1933) và một cô con gái tên là Margaretha (sinh năm 1934), tất cả đều đã kết hôn. Paul Müller mất ngày 12 tháng 10 năm 1965. Tài liệu tham khảo: - http://stevenlehrer.com/explorers/images/explor1.pdf - http://www.pubmedcentral.nih.gov/articlerender.fcgi - http://www.libertyindia.org/pdfs/malaria_climatechange2002.pdf - http://www.cdc.gov/malaria/history/panama_canal.htm - http://www.cdc.gov/malaria/history/history_cdc.htm - http://www.litsios.com/socrates/page5.php - http://history.amedd.army.mil/booksdocs/wwii/Malaria/chapterI.htm - From Nobel Lectures, Physiology or Medicine 1942-1962, Elsevier Publishing Company, Amsterdam, 1964. http://nobelprize.org/medicine/laureates/1948/muller-lecture.pdf
|