Nobel Y sinh học 2008 và đạo đức khoa học
Giải Nobel y sinh học 2008 vừa được trao vừa xứng đáng với tầm vóc của công trình nghiên cứu, lại vừa có ý nghĩa đạo đức khoa học.Ba nhà khoa học Âu châu được vinh danh là: Harald zur Hausen (Đức), Françoise Barré-Sinoussi, và Luc Montagnier (Pháp). Giáo sư Hausen, 72 tuổi, thuộc Đại học Düsseldorf , được ghi nhận vì có công khám phá vi khuẩn gây ung thư cổ tử cung. Còn giáo sư Barré-Sinoussi, 61 tuổi, và Montagnier, 76 tuổi, thuộc Viện Pasteur và Đại học Paris có công khám phá HIV - những người mà bài báo này sẽ đề cập sau đây. Cần nói thêm là năm 2005, hai nhà khoa học Úc (Barry Marshall và Robin Warren) được trao giải thưởng cao quí này do công trình nghiên cứu liên quan đến H. pylori. Thế là trong vòng vài năm trở lại đây, các công trình nghiên cứu miễn dịch và virút được công nhận hơn là những công trình “thời thượng” như sinh học phân tử và di truyền học. Giải thưởng Nobel được thiết lập theo di chúc của ông Alfred Nobel, trong đó ông viết rằng giải thưởng nên trao cho “những ai đã đem lại lợi ích lớn nhất cho con người.” | Ba nhà khoa học đoạt giải (từ trái sang phải): zur Hausen, Montagnier và Barre-Sinoussi (Ảnh: Reuters)
|
Trong những năm mà nghiên cứu về di truyền và sinh học phân tử còn là “thời thượng”, có nhiều nhà nghiên cứu được trao giải Nobel. Điều này dẫn đến nghi ngờ của giới y khoa là giải thưởng này không còn tuân theo hay phù hợp với ước nguyện của ông Nobel nữa, bởi vì nhiều công trình được giải chẳng có giúp ích gì cho bệnh nhân (chứ chưa nói đến “lợi ích lớn nhất”). Nhưng vài năm gần đây, giải thưởng có vẻ được quay về thời của miễn dịch học. Thật vậy, đến nay thì ai cũng có thể thấy các bệnh truyền nhiễm vẫn còn hoành hành thế giới. Ở nước ta, bệnh truyền nhiễm vẫn là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử vong cho dân số. Bệnh AIDS tuy chưa giết chết nhiều người ở nước ta, nhưng ở các nước Phi châu thì số người tử vong rất đáng lo ngại. Tuy nhiên, bệnh ung thư cổ tử cung ở phụ nữ người Việt tương đối nhiều (cao nhất so với các sắc dân khác). Do đó, trao giải thưởng cao quí này cho hai công trình về HPV và HIV theo tôi là rất xứng đáng và có ý nghĩa. Tranh cãi về virus HIV | Alfred Nobel (1833 - 1896) |
Nhưng năm nay có điểm đáng chú ý là giải thưởng trao cho GS Luc Montagnier, người có thời tranh cãi quyết liệt và nóng bỏng với GS Robert Gallo về chuyện tưởng như rất nhỏ: ai là người đầu tiên khám phá HIV? Câu chuyện đằng sau tranh chấp này đã tốn khá nhiều giấy mực của báo chí và thu hút sự quan tâm của cả cộng đồng khoa học, vì nó có ý nghĩa về đạo đức khoa học, thậm chí chính trị và sỉ diện quốc gia giữa Pháp và Mỹ. Ngày 20/5/1983, tập san Science (của Mỹ) công bố 3 bài báo quan trọng liên quan đến HIV, trong đó hai bài sau này trở thành một sự tranh chấp về công trạng (1,2). Công trình của Barré-Sinoussi và Montagnier mô tả một virút được phát hiện từ mô của một bệnh nhân với triệu chứng ban đầu của AIDS. Trước đó, Gallo và cộng sự đã phát hiện một virút mà họ đặt tên là HTLV (human T-cell leukemia virus). Không ngạc nhiên khi sau này người ta biết rằng Gallo là người bình duyệt (phản biện) bài báo của Barré-Sinoussi và Montagnier. Gallo đề nghị Barré-Sinoussi và Montagnier nên đặt tên virút mà họ khám phá là HTLV. Có lẽ để làm hài lòng người phản biện, trong phần mở đầu của bài báo, Barré-Sinoussi và Montagnier có đề cập đến HTLV nhưng cho rằng virút họ khám phá rất khác biệt với HTLV (tức là một mâu thuẫn)! Một năm sau, ngày 4/5/1984, nhóm của Gallo công bố một loạt 4 bài báo trên Science. Trong đó, họ mô tả HTLV và một phương pháp xét nghiệm HIV (3-6). Năm 1985, hai nhóm tranh chấp bản quyền về khám phá virút HIV. Cuộc tranh chấp (hay tranh cãi) có khi rất gay gắt, chỉ xoay quanh câu hỏi: ai là người đầu tiến khám phá virút HIV? Phía Mỹ bênh “gà nhà”, còn phía Pháp có vẻ “lép vế” hơn trên mặt trận truyền thông. Rất nhiều bài báo, sách, và websites từ Mỹ một mực cho rằng Gallo là người có công đầu, còn Montagnier cũng có công phụ. Phía Viện Pasteur thì khẳng định Montagnier là người có công khám phá HIV trước Gallo. | GS Luc Montagnier và GS Robert Gallo (Ảnh: Reuters, Wikimedia) |
Có lúc nhóm nghiên cứu của Pháp tố cáo Gallo đạo văn và ăn cắp số liệu của Montagnier để dành công trạng. Cần nói thêm rằng trước khi công bố bài báo trên Science, nhóm nghiên cứu của Montagnier gửi mẫu máu cho nhóm của Gallo để phân tích. Dựa vào một số bất cập cũng như trùng hợp dữ liệu trong bài báo của Gallo và bài báo của Montagnier, nhóm của Montagnier cáo buộc rằng Gallo đã lấy mẫu máu làm “của riêng” và công bố khám phá HIV! Trước cáo buộc nghiêm trọng này, Cơ quan về liêm chính trong khoa học của Mỹ (Office of Scientific Integrity, ORI) mở cuộc điều tra. Sau một thời gian xem xét sổ sách thí nghiệm và so sánh với bài báo trên Science, ORI thấy có một số phương pháp mô tả trong bài báo không ăn khớp với sổ sách thí nghiệm, một số dữ liệu có dấu hiệu “vặn vẹo”. Tuy nhiên, ORI kết luận rằng Gallo và đồng nghiệp ông là Mikulas Popovic không phạm tội đạo văn hay ăn cắp số liệu. Cuộc tranh cãi dai dẳng giữa Montagnier và Gallo dẫn đến pháp đình. Tháng 12/1985, Viện Pasteur của Pháp kiện Bộ Y tế Mỹ ra tòa, và cáo buộc rằng Gallo đã vi phạm đạo đức khoa học. Tháng 3/1987, cuộc tranh chấp được dàn xếp hay giải quyết ngoài tòa. | GS Barré-Sinoussi (Ảnh: Reuters) |
Tổng thống Reagan và Chirac lúc đó ra thông cáo chung là tiền thu được từ bản quyền của phương pháp xét nghiệm sẽ được chia đôi giữa Mỹ và Pháp. Ngoài ra, phương pháp xét nghiệm HIV sẽ mang tên Montagnier và Gallo. Hai người sau này còn viết chung một bài báo mô tả tiến trình họ khám phá HIV như thế nào. Tuy trường hợp này đã dàn hòa, nhưng trong cộng đồng khoa học, thì người ta đã quyết định từ lâu ai là người có công khám phá HIV đầu tiên. Một cách để thăm dò “nhiệt kế” thái độ của giới khoa học là xem qua số lần trích dẫn bài báo. Nhà xã hội học Alison Rawling thuộc đại học Sydney có làm một phân tích hết sức thú vị về số lần trích dẫn 2 công trình trên của giới khoa học từ 1983 đến 1994 (tôi trình bày lại số liệu đó trong bảng dưới đây):
Số lần trích dẫn hai bài báo của Gallo và Montagnier từ 1983 đến 1994Năm | Bài báo của Gallo (2) | Bài báo của Barré-Sinoussi và Montagnier (1) | 1983 | 44 | 32 | 1984 | 99 | 143 | 1985 | 97 | 366 | 1986 | 58 | 412 | 1987 | 35 | 401 | 1988 | 29 | 392 | 1989 | 30 | 320 | 1990 | 32 | 326 | 1991 | 16 | 256 | 1992 | 19 | 253 | 1993 | 14 | 202 | 1994 | 10 | 161 |
Khi bài báo của Barré-Sinoussi và Montagnier được công bố gần như chẳng gây chú ý nào. Một bài xã luận trên Science thậm chí lờ đi bài báo của Barré-Sinoussi và Montagnier, mà chỉ đề cập đến bài của Gallo và người khác! Sáu tháng sau khi công bố, công trình của Barré-Sinoussi và Montagnier chỉ được trích dẫn 27 lần, còn bài của Gallo thì được trích dẫn đến 70 lần. Nhưng tình hình thay đổi nhanh chóng sau đó. Đến năm 1985 khi mà cuộc tranh chấp giữa Montagnier và Gallo ở vào thời “cao điểm” thì công trình của Barré-Sinoussi và Montagnier mới được cộng đồng khoa học ghi nhận. Đến nay, Ủy ban Nobel trao giải cho hai nhà khoa học Pháp có thể xem là một cách gián tiếp chính thức ghi nhận công lao của Barré-Sinoussi và Montagnier, chứ không phải Gallo, là người đầu tiên khám phá HIV. Nobel Y sinh học 2008 - tầm vóc và ý nghĩa Thomas Kuhn trong cuốn sách nổi tiếng “The Structure of Scientific Revolution” lí giải rằng trong khoa học, khám phá một điều gì mới là cả một quá trình lâu dài và có sự đóng góp của nhiều người. Do đó, việc định lượng công trạng cho từng cá nhân trong việc khám phá là một việc làm cực kì khó khăn, và thường gây ra tranh cãi giữa các nhà khoa học. | GS. Luc Montagnier và Giám đốc Quỹ Nghiên cứu và Phòng chống AIDS Thế giới (Ảnh: Reuters) |
Trong lịch sử khoa học không thiếu những trường hợp tranh chấp để dành “ai làm trước”. Robert Koch và Louis Pasteur từng tranh chấp nhau để giành công trạng ai là người khám phá nguyên nhân bệnh than (anthrax).James Watson và Francis Crick từng lấy số liệu của cộng sự mình là Roselind Franklin để làm nền tảng cho việc khám phá DNA, nhưng cả hai đều không đề cập đến công trạng của Franklin. Mãi đến sau này khi được đồng nghiệp phanh phui, Watson và Crick mới thú nhận từng lấy số liệu của Franklin (nhưng lúc đó thì bà Franklin đã qua đời vì bệnh ung thư buồng trứng nên không bao giờ được giải Nobel). Trường hợp của Montagnier thì tích cực hơn vì ông ghi nhận công trạng của học trò mình là Françoise Barré-Sinoussi, và hai người cùng chia sẻ nhau giải thưởng Nobel. Mỗi giải Nobel Y sinh học đều để lại vài “dư âm” trong cộng đồng khoa học, và lần này cũng không phải là một ngoại lệ. Phát biểu trước tin đồng nghiệp mình được trao giải, GS Robert Gallo nói ông thấy “thất vọng” trước quyết định của Ủy ban Nobel. Nhưng đồng nghiệp khoa học thì không, vì qua phân tích trích dẫn, rõ ràng cộng đồng khoa học đã quyết định công trạng thuộc về ai. Đã từ lâu, người trưởng nhóm nghiên cứu thường được chọn để trao giải thưởng và lưu danh hậu thế, còn nghiên cứu sinh của họ hay cộng sự thường là cái bóng bên lề những hào quang của sếp mình. Nhưng năm nay, việc ghi nhận hai thầy trò Montagnier và Barré-Sinoussi là một dấu hiệu rất tích cực cho thấy khoa học hiện đại không chấp nhận những sự “cướp công” đồng nghiệp. Nhìn như thế tôi nghĩ giải Nobel y sinh học năm nay vừa xứng đáng với tầm vóc của công trình nghiên cứu, lại vừa có ý nghĩa đạo đức khoa học. Một số ghi chú: (1)Barré-Sinoussi F, Chermann JC, Rey F, Nugeyre MT, Chamaret S, Gruest J, Dauguet C, Axler-Blin C, Vézinet-Brun F, Rouzioux C, Rozenbaum W, Montagnier L. Isolation of a T-lymphotropic retrovirus from a patient at risk for acquired immune deficiency syndrome (AIDS).. 1983 May 20;220(4599):868-71. (2)Gallo RC, Sarin PS, Gelmann EP, Robert-Guroff M, Richardson E, Kalyanaraman VS, Mann D, Sidhu GD, Stahl RE, Zolla-Pazner S, Leibowitch J, Popovic M. Isolation of human T-cell leukemia virus in acquired immune deficiency syndrome (AIDS). Science 1983 May 20;220(4599):865-7. (3)Popovic M, Sarngadharan MG, Read E, Gallo RC. Detection, isolation, and continuous production of cytopathic retroviruses (HTLV-III) from patients with AIDS and pre-AIDS. Science 1984 May 4;224(4648):497-500. (4)Schüpbach J, Popovic M, Gilden RV, Gonda MA, Sarngadharan MG, Gallo RC. Serological analysis of a subgroup of human T-lymphotropic retroviruses (HTLV-III) associated with AIDS. Science 1984 May 4;224(4648):503-5. (5)Sarngadharan MG, Popovic M, Bruch L, Schüpbach J, Gallo RC. Antibodies reactive with human T-lymphotropic retroviruses (HTLV-III) in the serum of patients with AIDS. Science 1984 May 4;224(4648):506-8. (6)Gallo RC, Salahuddin SZ, Popovic M, Shearer GM, Kaplan M, Haynes BF, Palker TJ, Redfield R, Oleske J, Safai B, et al. Frequent detection and isolation of cytopathic retroviruses (HTLV-III) from patients with AIDS and at risk for AIDS. Science 1984 May 4;224(4648):500-3.
|