Phòng khám Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn tầm soát và kiểm soát đái tháo đường bằng thiết bị y tế hệ mới PREMIER Hb9210
Thời gian gần đây, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn được trang bị một số trang thiết bị y tế mới, trong đó có thiết bị xét nghiệm HbA1C tự động được sản xuất tại Mỹ nhằm tầm soát và kiểm soát bệnh đái tháo đường. Đây không chỉ là nỗ lực vượt bậc của một đơn vị sự nghiệp thuộc Bộ Y tế trong chăm sóc sức khỏe người bệnh mà còn là một cơ hội với những ai đang mắc chứng đái tháo đường-căn bệnh phổ biến và khó kiểm soát hiện nay. Đái tháo đường là một trong những căn bệnh nội tiết - chuyển hóa quan trọng, ảnh hưởng đến sức khỏe và kinh tế xã hội trên toàn thế giới. Song song với các bệnh truyền nhiễm đang nổi và tái nổi thì các bệnh không lây nhiễm-trong đó có đái tháo đường được xem là gánh nặng bệnh tật cần quan tâm. Theo ước tính của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) cho biết hiện có 347 triệu người trên toàn cầu mắc bệnh đái tháo đường, hơn 80% bệnh nhân đái tháo đường đang sống trong các quốc gia và vùng lãnh thổ có thu nhập thấp và trung bình, đặc biệt số ca ước tính tử vong có liên quan đến đái tháo đường từ năm 2005-2013 sẽ được đánh giá bởi các chuyên gia TCYTTG. Gần đây, các chuyên gia y tế thế giới và chuyên gia nội tiết đái tháo đường châu Âu chấp nhận sử dụng test HbA1C để chẩn đoán và kiểm soát bệnh đái tháo đường hiệu quả và kinh tế nhất.
Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn với công tác xét nghiệm, sàng lọc, phát hiện, chẩn đoán, điều trị và kết hợp tư vấn dự phòng các bệnh lý sốt rét, ký sinh trùng và côn trùng truyền bệnh chữa bệnh đã giúp giảm gánh nặng bệnh tật, đặc biệt các bệnh ký sinh trùng, sốt rét và bệnh do côn trùng truyền cho các bệnh viện trong khu vực miền Trung-Tây Nguyên trong nhiều năm qua có hiệu quả được các Bộ Y tế và một số tổ chức y tế quốc tế ghi nhận. Với sự tiến bộ của khoa học y học, Viện Sốt rét-Ký sinh trùng-Côn trùng Quy Nhơn thời gian qua đã trang bị rất nhiều thiết bị y khoa hiện đại nhằm phục vụ công tác khám, chữa bệnh nhanh, an toàn, chính xác và hiệu qủa hơn như hệ thống máy huyết học Celltac F hãng Nihon Kohden, hay máy Beckman Coulter, sinh hóa Beckman Coulter AU 680 và Beckman Coulter AU400, máy phân tích nước tiểu đa năng Clinitek Novus Siemens Urinalysis casette có thể phát hiện sớm một số tổn thương hệ tiết niệu, dàn máy ELISA PW 40 của hãng BioRad, dàn máy PCR chẩn đoán sinh học phân tử các bệnh lý viêm gan B, C, định loài ký sinh trùng, phát hiện đa dạng di truyền, đột biến kháng thuốc do ký sinh trùng, máy xét nghiệm miễn dịch chẩn đoán các dị nguyên gây dị ứng Immulit XPi 2000,…. Đặc biệt, gần đây Viện tiếp tục trang bị một số trang thiết bị mới, hiện đại nhằm phục vụ xét nghiệm tổng thể nhiều bệnh lý khác nhau, trong đó có tầm soát, phát hiện, chẩn đoán, theo dõi tiến triển điều trị của bệnh nhân đái tháo đường. Đó chính là thiết bị xét nghiệm HbA1C tự động được sản xuất tại Mỹ. |
Thiết bị y khoa này có khả năng xử lý, thực hiện xét nghiệm hàng loạt các mẫu một cách liên tục dựa trên nguyên lý sắc ký lỏng cao áp (High Performance Liquid Chromatography_HPLC) sử dụng ái lực hạt Bo, mang đến sự tin cậy với các kết quả HbA1C. Mặc khác, kết quả HbA1C này không bị ảnh hưởng bới các biến thể hemglobine khác như HbC, HbS, HbE, HbD và các biến thể hemoglobin bất thường khác. Với tốc độ 54 xét nghiệm/ mẫu trên 1 giờ, máy đưa ra kết quả chính xác và nhanh nhất, giúp các thầy thuốc lâm sàng giảm tải lượng bệnh nhân trong ngày và tạo điều kiện thuận lợi cho bệnh nhân có kết quả sớm - điều trị sớm nhất và trở về nhà trong ngày theo xu hướng giảm tải bệnh nhân tại các bệnh viện trong cả nước hiện nay. Hệ thống thiết bị Premier với các kết quả đáng tin cậy và so sánh chuẩn cùng với các thông số tham chiếu từ Liên đoàn Hóa sinh Y học IFCC và NGSP xác nhận về phân tích HbA1c mức A. Một số tính năng đặc biệt của hệ thống phân tích cho thấy không có sự can thiệp gây nhiễu kết quả của các biến thể Hb thông qua phương pháp liên kết “boronate affinity” ngăn ngừa bất kỳ một yếu tố nhiễu nào do các loại Hb chính như các biến thể Hb, các carbamylated Hb hoặc các phần không bền. Công suất cao, hệ thống Hb921 O Premier là hệ thống phân tích HPLC nhanh nhất không bị ảnh hưởng bởi các yếu tố nhiễu trên thị trường hiện nay. Hơn nữa, các khâu chuẩn và chứng (lntegrated calibration and controls) rất ổn định, đảm bảo tính tự động hóa và tự hoạt động trên phần cứng đi kèm đáng tin cậy 100%, ngay cả cho hoạt động thường quy qua đêm. Hệ thống phần mềm dễ sử dụng, công suất linh hoạt, chạy theo từng mẻ nhỏ, hoặc nạp mẫu bệnh phẩm đến 210 mẫu cùng một lúc, màn hình chạm trực quan (cảm ứng), dễ thao tác và nhanh nhạy. Chẩn đoán với độ chính xác cao (cv < 2%). Số liệu kết quả báo cáo đôi theo hai hệ thống đơn vị DCCT và IFCC units.Đặc biệt thiết bị này đã thông qua chấp thuận và phê duyệt của Cơ quan Quản lý Dược thực phẩm Mỹ (US. FDA) vào năm 2011. Một số tính năng vượt trội là phân tích nhanh, đáng tin cậy, an toàn, chuẩn xác, đọc kết quả đơn giản và năng suất cao – Chỉ có ở thiết bị Hb9210 (Fast, reliable, safe, sharper analysis, simpler reading and high-capacity platform à Hb 9210 Analysis)
Một nghiên cứu đánh giá đa trung tâm về thiết bị y khoa Premier Hb9210 HbA1C analyser hiện đại do nhóm tác giả John WG, Little R, Sacks DB, Weykamp C, Lenters-Westra E, Hornsby T, Zhao Z, Siebelder C, Tennill A, English E tiến hành và công bố trên tạp chí nổi tiếng Hóa dược Lâm sàng (Multicentre evaluation of the Premier Hb9210 HbA1c analyser - Clin Chem Lab Med. 2015 Feb;53(2):319-27. doi: 10.1515/cclm-2014-0589). Kết quả đánh giá cho thấy rằng việc định lượng chuẩn xác và trong một khoảng giới hạn nhỏ của thông số HbA1c là một trị số cần thiết coh chẩn đoán và giám sát thường quy đối với các bệnh nhân đái tháo đường. Nghiên cứu đánh giá dựa trên hệ thốngmáy Trinity Biotech Premier Hb9210 analyser (Bray, Ireland - Kansas City, MO, USA) với một hệ thống sắc ký lỏng cao áp gắn kết boronate (chromatography-based high performance liquid chromatography_HPLC) để đo nồng độ thông số quan trọng chất glycated haemoglobin hay HbA1C. Số liệu kết quả này được đem đi đánh giá và so sánh đa trung tâm, đặc biệt là đánh giá cả các yếu tố và ảnh hưởng của các biến thể của hemoglobine, các yếu tố nhiễu tiềm tàng khác và đặc biệt các số liệu này còn so sánh với dữ liệu và hệ tham chiếu của Liên đoàn Hóa sinh y học cận lâm sàng quốc tế (International Federation of Clinical Chemistry and Laboratory Medicine_IFCC) và Chương trình chuẩn hóa glycohemoglobin quốc gia (National Glycohemoglobin Standardization Program_NGSP). Hầu hết các trung tâm tham gia thử nghiệm hệ thống máy Premier Hb9210 HbA1C analysercũng đóng vai trò như la bô tham chiếu theo chuẩn của IFCC khi xét nghiệm HbA1c. Kết quả đã cho thấy độ thay đổi hoặc hệ số sai biệt (coefficients of variation_cv) lần lượt ở mức độ thấp, trung bình, cao là 2.71%, 2.32% và 2.14% theo đơn vị mmol/mol (SI units) và 1.62%, 1.59% và 1.68% đối với đơn vị % (NGSP units), các con số này chỉ ra thấp hơn giớihạn trên khuyến cáo cho phép là 3% cv đối với đơn vị mmol/mol (SI units) và 2% CV đối với đơn vị % (NGSP units). Hệ thống phân tích cho thấy có mối tương quan chặt chẽ đối với các phương pháp xét nghiệm HbA1C hiện đang sử dụng trong thực hành lâm sàng và đúng với kết quả tham chiếu từ quy trình IFCC. Các biến thể haemoglobin AC, AS, AE và AD không ảnh hưởng lên kết quả đo nồng độ HbA1C. Do vậy, các nhà cận lâm sàng kết luận máy Hb9210 này thực hiện tốt và ứng dụng phù hợp trong thực hành lâm sàng để phân tích HbA1C. Tổng thể kiểm soát bệnh tiểu đường và ngăn ngừa biến chứng đái tháo đường? Tỷ lệ người bị đái tháo đường ngày càng gia tăng, đồng thời kéo theo các nguy cơ biến chứng khác, trong đó biến chứng về tim mạch, thận tiết niệu, thần kinh ngoại biên và mắt, não như biểu hiện đau thắc ngực, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, đột quỵ, loét bàn chân, mờ mắt, hội chứng thận…nên kiểm soát vấn đề này, các chuyên gia khuyên bệnh nhân nên chú ý ba chỉ số là thông số HbA1C, huyết áp động mạch và hàm lượng lipid trong máu. - HbA1C: xét nghiệm HbA1C này là phương pháp đo lượng đường trong máu gắn với Hb của hồng cầu. Nếu lượng đường máu cao thì số lượng hầu cầu gắn đường càng nhiều. Do đó, HbA1C phản ánh nồng độ đường trong máu trong suốt khoảng thời gian 90-120 ngày. Người mắc bệnh ĐTĐ nên xét nghiệm HbA1C mỗi 3-6 tháng. Chỉ số HbA1C còn giúp người bệnh tiên lượng về biến chứng của tiểu đường. Bệnh nhân ĐTĐ cần kiểm soát tốt các đường máu lúc đói và đường máu sau khi ăn thì mới hy vọng đạt được mức HbA1C theo khuyến cáo của Hội ĐTĐ Mỹ là dưới 7%; - Huyết áp: cần kiểm soát huyết áp để phòng tránh biến chứng tim mạch. Theo đó, khi huyết áp càng cao thì tim càng phải hoạt động mạnh để bơm máu vào các mạch máu. Vì vậy, nguy cơ bị suy tim nếu huyết áp cao nhiều hoạt cao kéo dài. Khuyến cáo của Hội ĐTĐ Mỹ từ nhiều năm nay về mức huyết áp cho bệnh nhân ĐTĐ là dưới 130/80mmHg, mà tốt nhất là 120/70mmHg, mục tiêu này thấp hơn nhiều so với mức được chẩn đoán tăng huyết áp là 140/90mmHg. Nếu tăng 10mmHg thì nguy cơ bị bệnh tim mạch tăng lên 15%; - Bilan lipid máu: Rối loạn lipid máu là bệnh lý có tăng thành phần mỡ gây tác hại và giảm thành phần mỡ bảo vệ cho cơ thế; đồng thời đây là nguy cơ chính dẫn đến cao huyết áp, nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, xơ vữa động mạch. Khi xét nghiệm bilan lipid máu, 4 chỉ số quan trọng cần được quan tâm, đó là cholesterol total, LDL-cholesterol (LDL-c), HDL-cholesterol (HDL-C) và triglyceride được mang đi trong máu nhờ kết hợp với một chất có tên là lipoprotein. Cholesterol kết hợp cới LDL (được ký hiệu lag LDL-c) là dạng cholesterol khi dư sẽ gây hại cho cơ thể, chúng vận chuyển cholesterol vào trong máu, lắng động trong thành mạch máu và là yếu tố chính hình thành mảng xơ vữa. Cholesterol kết hợp HDL (được ký hiệu là HDL-c) là một dạng cholesterol có lợi cho cơ thể. HDL-c chống lại quá trình xơ mỡ động mạch bằng cách mang cholesterol thừa ứ đọng từ trong thành mạch máu trở về gan. Mục tiêu cần đạt được lipid máu ở các bệnh nhân ĐTĐ theo Hội đái tháo đường Mỹ là LDL-c < 2.6mmmol/L; HDL-c > 1.0mmmol/L; triglyceride < 1.7mmmol/L. Theo các nghiên cứu, nếu để LDL-c tăng lên 1mmmol/l thì nguy cơ bệnh động mạch vành tăng lên 57%. Giá trị quan trọng của chỉ định xét nghiệm thông số Hemoglobin A1c (HbA1c)? HbA1C có phải là tiêu chuẩn vàng trong kiểm soát đường huyết không? hoặc Phát hiện đái tháo đường sớm có thể nhờ vào HbA1C. Đây là các khía cạnh quan tâm đặc biệt của không những giới y khoa mà còn biểt bao nhiêu người có nguy cơ, nhiều người lớn tuổi hoặc có cơ địa hoặc có thân nhân mình từng bị đái tháo đường tìm hiểu về vấn đề này? Vậy thử nghiệm HbA1C là gì và có giá trị thế nào với người bệnh đái tháo đường và người trong nhóm nguy cơ? Thử nghiệm HbA1C còn gọi là Glycohemoglobin test. Trong thực tiễn lâm sàng khi thử lượng đường trong máu bằng phương pháp thông thường hay với máy thử đường cá nhân như người bệnh tiểu đường vẫn làm hằng ngày, chỉ cho chúng ta biết trị số của đường huyết trong thời điểm đó mà thôi, do đó muốn biết đường huyết trung bình của bệnh nhân tiểu đường trong một thời gian nào đó, người ta phải dùng một thử nghiệm đặc biệt có tên là Glycated Hemoglobin Testing. Hemoglobin (Hb) là một protein nằm trong hồng cầu. Hb chuyên chở O2 từ phổi đến mọi tế bào trong cơ thể, cũng như các protein khác, Hb có thể kết hợp với glucose và khi Hb kết hợp với glucose thì trở thành glycohemoglobin hay glycated hemoglobin. Lượng glucose trong máu càng cao thì lượng glycohemoglobin trong hồng cầu càng nhiều và cứ giữ nguyên như vậy suốt đời sống của hồng cầu, nghĩa là trong khoảng thời gian từ 3 đến 4 tháng (trung bình 120 ngày). Thử nghiệm HbA1C có ý nghĩa như thế nào và tại sao đến nay chúng lại được các chuyên gia y tế thế giới và nội tiết đái tháo đường chấp nhận chỉ số này để chẩn đoán bệnh đái tháo đường (ĐTĐ)? Thử nghiệm HbA1C đo lượng glycohemoglobin trong hồng cầu và được thực hiện trong phòng xét nghiệm. Kết quả này không ảnh hưởng gì đến việc bạn đang trong thời gian bụng đói hay đã ăn rồi. Do đó, mẫu máu của bệnh nhân có thể lấy bất cứ lúc nào trong ngày. Kết quả HbA1C cho ta biết những thông tin dưới đây: -HbA1C cho biết đường huyết trung bình của bạn trong khoảng thời gian từ 2- 3 tháng vừa qua. Qua đó, bác sĩ của bạn có thể đánh giá kết quả điều trị trong khoảng thời gian này; -Giúp bạn so sánh với kết quả thử đường huyết do bạn thực hiện. Nếu có điểm không phù hợp, bạn có thể xem xét lại các kết quả thử máu hay các thời điểm thử máu; -Giúp bạn đánh giá kế hoạch kiểm soát tiểu đường của bạn. Nếu HbA1C vẫn ở mức cao, bác sĩ của bạn sẽ cùng bạn xem xét lại toàn bộ kế hoạch điều trị; -Cho bạn biết những sự thay đổi trong kế hoạch điều trị có tác dụng như thế nào trên kết quả điều trị bệnh tiểu đường; Hiện có nhiều phương pháp để đo HbA1C. Phương pháp thường dùng nhất là cách tính phần trăm lượng glycohemoglobin trong hemoglobin toàn phần. Thông thường, ở người bình thường HbA1C nhỏ hơn 6%, mục tiêu điều trị của bệnh nhân tiểu đường là dưới 7%. Nếu lớn hơn 8% nên xét lại kế hoạch điều trị và nên thử HbA1C ngay khi phát hiện bạn bị tiểu đường. Sau đó: -Nếu bạn dùng insulin thì thử lại ít nhất 4 lần một năm; -Nếu bạn không dùng insulin thì tùy theo ý kiến bác sĩ hay ít nhất 2 lần một năm; -Chỉ số HbA1C không hoàn toàn thay thế chỉ số đường huyết của bạn, do vậy bạn nên vẫn phải tự thử đường huyết. HbA1C không thể thay thế việc bạn phải tự theo dõi đường huyết thường xuyên. Tự thử máu bằng máy thử đường cá nhân, giúp bạn theo dõi và giải quyết một cách có hiệu quả các tình trạng bất thường của đường huyết. Theo GS.TS Trần Văn Thọ, Chủ tịch Hội nội tiết và Đái tháo đường Việt Nam, kiểm soát tốt đường huyết bằng xét nghiệm HbA1C là cách tốt nhất để giảm những nguy cơ biến chứng ở bệnh nhân đái tháo đường. 6,5% là chỉ số HbA1C chung của thế giới và là mục tiêu hướng tới của Việt Nam trong những năm tới đây. Huyết sắc tố là chất tìm thấy trong tế bào hồng cầu và mang oxy từ phổiđến các mô của cơ thể. HbA1C được tạo thành khi glucose lưu thông trong máu gắn kết với huyết sắc tố, trong khoảng thời gian là 90 ngày (theo vòng đời trung bình của một tế bào hồng cầu). Xét nghiệm HbA1C để đo lượng đường trung bình trong máu tại trong khoảng thời gian 90 ngày đó. Một người bình thường có khoảng 5% huyết sắc tố gắn kết với glucose, có nghĩa HbA1C là 5%. Ở bệnh nhân đái tháo đường, đường huyết cao hơn mức bình thường. Điều này dẫn tới làm tăng HbA1C. Nếu đường huyết duy trì ở mức cao và trong một thời gian dài, có thể dẫn đến các vấn đề nghiêm trọng như bệnh tim mạch, đột quỵ, giảm thị lực, bệnh thận và nguy hại cho thần kinh. Giữ đường huyết trong tầm kiểm soát (dưới 6,5%) có thể giúp ngăn chặn những vấn đề đó. Nhiều nghiên cứu cho thấy, giảm được 1% HbA1C sẽ giảm được 21% nguy cơ tử vong, 14% biến cố tim mạch, 37% biến chứng vi mạch, 43% biến chứng ngoại máu lai. GS Thọ cũng khuyên rằng cứ 3 tháng, những người có nguy cơ mắc bệnh nên đến kiểm tra chỉ số HbA1C một lần tại các khoa nội tiết hoặc bệnh viện nội tiết để có hướng điều trị sớm. Ngay khi có kết quả, bác sĩ sẽ dành cho bạn những lời khuyên tốt nhất. Tuy nhiên, người bệnh cũng không nên quên kiểm soát lượng đường huyết hàng ngày. Một số cách để kiểm soát đường huyết như giữ thân trọng ở mức vừa phải; thường xuyên tập thể dục; ăn uống theo hướng có lợi cho sức khỏe, hạn chế ăn chất béo, chất đường và tăng cường chất xơ, trái cây và rau quả; uống thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ (dành cho bệnh nhân có nguy cơ và bệnh nhân đã mắc bệnh). Chẩn đoán sớm mắc bệnh tiểu đường dựa vào xét nghiệm HbA1c?HbA1C phản ánh tình trạng đường máu trung bình 3 tháng nên rất có ích trong theo dõi điều trị bệnh tiểu đường và HbA1C có thể thử được ngay cả khi bệnh nhân đã ăn. Các nghiên cứu mới đây cho thấy HbA1C còn rất hữu dụng trong việc xác định khả năng mắc tiểu đường cho những người có nguy cơ mà chưa được khẳng định chẩn đoán. Theo ước đoán, tỷ lệ mắc tiểu đường chưa được chẩn đoán ở Mỹ vào khoảng 2,8% dân số. Ginde và cộng sự đánh giá nồng độ HbA1c như là một xét nghiệm sàng lọc bệnh cho 6723 người từ năm 1999-2004. Các nghiên cứu chia mức độ nguy cơ cho những người ĐTĐ chưa được chẩn đoán này vào 3 nhóm: (i) Nhóm có nguy cơ thấp có tỷ lệ mắc ĐTĐ là 0,44%; (ii) Nhóm có nguy cơ trung bình có tỷ lệ mắc ĐTĐ là 4,1%; (iii) Nhóm có nguy cơ cao có tỷ lệ mắc tiểu đường là 11,1%. Các yếu tố nguy cơ bao gồm: tuổi cao, nam giới, người da đen, tăng huyết áp, vòng bụng to, tăng triglycerid máu và giảm HDL cholesterol. Trị số HbA1C rất hữu ích khi áp dụng vào các nhóm nguy cơ này: hơn một nửa số người có nguy cơ cao mắc ĐTĐ với HbA1C ≥ 6,1% chưa được chẩn đoán. Từ những dữ liệu của công trình nghiên cứu, các nhà khoa học đưa ra khuyến cáo: -Nếu HbA1 C≤ 5,4% có thể loại trừ mắc ĐTĐ; -Nếu HbA1C từ 5,5-6% có thể loại trừ mắc ĐTĐ cho người có nguy cơ trung bình, nhưng chưa loại trừ được cho người có nguy cơ cao; -Nếu HbA1C ≥ 6,1%: cần được xác định bệnh ĐTĐ bằng thử đường máu; -Nếu HbA1C ≥ 6,5%: có thể chấp nhận là đã mắc ĐTĐ. Thậm chí có thể với mức HbA1C thấp hơn nữa. Nếu bạn bị ĐTĐ, bạn cần phải hợp tác tốt với bác sĩ để giữ lượng đường trong máu ở mức tối ưu. Có 2 lý do rất chính đáng để làm điều này: -Bạn sẽ cảm thấy khỏe hơn; -Có thể bạn sẽ phòng được hoặc làm chậm lại sự khởi phái của các biến chứng ĐTĐ chẳng hạn như những tổn thương thần kinh, mắt, thận và mạch máu. Một cách để theo dõi sự thay đổi đường huyết là kiểm tra đường huyết tại nhà. Xét nghiệm này sẽ cho bạn biết lượng đường trong máu của mình tại bất kỳ một thời điểm nhất định nào đó. Tuy nhiên, để biết được bạn có kiểm soát được đường huyết của mình ở mọi thời điểm hay không, xét nghiệm HbA1c có thể giúp được bạn điều đó, nó sẽ cho bạn thấy bức tranh toàn thể của quá trình kiểm soát đường huyết trung bình trong 2-3 tháng gần nhất. Những kết quả trả về sẽ giúp bạn đánh giá được hiệu quả của phương pháp điều trị mà bạn đang theo. Xét nghiệm HbA1c đánh giá lượng đường trung bình có trong máu trong vòng 2-3 tháng gần nhất bằng cách đo nồng độ của glycosylated hemoglobin. Như bạn đã biết, đường có tính chất kết dính, và nếu như đã dính vào đâu đó một thời gian thì rất khó để lấy chúng ra. Đường ở bên trong cơ thể cũng vậy, khi glucose tuần hoàn trong máu, một phần glucose sẽ tự động kết dính vào hemoglobin A (dạng hemoglobin chủ yếu trong cơ thể của người trưởng thành). Hemoglobine là một loại protein đỏ của hồng cầu giữ nhiệm vụ mang oxygen. Một khi glucose dính vào hemoglobin A, nó sẽ ở đó vĩnh viễn cho đến khi kết thúc đời sống của hồng cầu. Glucose có càng nhiều trong máu thì sẽ có càng nhiều glucose kết dính vào hemoglobin A. Dạng kết hợp giữa glucose và hemoglobin A được gọi là A1c (hemoglobin A1c hoặc glycohemoglobin). Nồng độ A1c sẽ không thay đổi nhanh chóng, nhưng nó sẽ thay đổi khi các tế bào hồng cầu cũ chết đi và bị thay thế bởi những tế bào hồng cầu mới. Để làm xét nghiệm, người ta sẽ lấy một mẫu máu của bệnh nhân bằng cách đâm kim vào tĩnh mạch ở cánh tay hoặc nặn ra một giọt máu từ ngón tay sau khi đâm một lancet nhỏ, có đầu nhọn vào đó. Cứ 1% thay đổi trên kết quả của HbA1c phản ánh sự thay đổi khoảng 30mg/dL (1.67mmol/L) ở lượng đường huyết trung bình. Ví dụ như giá trị HbA1c là 6% tương ứng với giá trị đường huyết là 135mg/dL (7.5 mmol/L), giá trị HbA1c là 9% tương ứng với giá trị của glucose trung bình khoảng 240 mg/dL (13.5 mmol/L). Bệnh nhân ĐTĐ càng giữ giá trị HbA1c gần với mức 6% bao nhiêu thì đường huyết càng được kiểm soát tốt bấy nhiêu, và nếu giá trị HbA1c tăng thì nguy cơ bị các biến chứng cũng tăng theo. HbA1c(%) | Giá trị đường huyết trung bình (mg/dl) |
| 6 | 135 | 7 | 170 | 8 | 205 | 9 | 240 | 10 | 275 | 11 | 310 | 12 | 345 |
Cần nhớ rằng sự tương ứng giữa giá trị glucose huyết trung bình và giá trị của HbA1c chỉ mang tính chất ước lượng, nó tùy thuộc vào phương pháp tính toán và nhiều yếu tố khác, chẳng hạn như đời sống hồng cầu. Giá trị đường huyết chính xác được cung cấp bởi phòng xét nghiệm có thể sẽ không trùng khớp hoàn toàn với công thức được cho ở trên. Một số điểm cần lưu ý khi phiên giải kết quả HbA1C -HbA1C không phản ánh được những đợt tăng hay giảm đường huyết cấp tính. Nếu bạn có những loại Hb bất thường, như Hb hình liềm, có thể lượng HbA trong máu sẽ giảm xuống. Nó sẽ ảnh hưởng đến lượng glucose dính vào Hb và do đó có thể hạn chế công dụng của xét nghiệm HbA1C trong việc theo dõi ĐTĐ. Ở những bệnh nhân bị tán huyết hoặc xuất huyết nặng, giá trị của HbA1C có thể sẽ xuống rất thấp. Ở những bệnh nhân thiếu sắt, HbA1c cũng có thể tăng; -Các chuyên gia hàng đầu thế giới về ĐTĐ đã đưa ra 10 bước hướng dẫn trong thực hành lâm sàng để cải thiện kết quả điều trị cho người bệnh bị ĐTĐ type 2 và làm tăng tỷ lệ bệnh nhân đạt được các mục tiêu điều trị theo hướng dẫn. Đây được xem như bước tiến quan trọng nhất cho bệnh nhân ĐTĐ có thể chung sống tốt hơn với bệnh; -Mục tiêu kiểm soát đường huyết tốt là đạt HbA1C dưới ngưỡng 6,5; -Mục tiêu điều trị đạt được HbA1C theo khuyến cáo sẽ mang lại nhiều lợi ích trong làm giảm các biến chứng vi mạch và mạch máu lớn. Tuy nhiên, cần xem xét các yếu tố nguy cơ của từng người bệnh như tuổi tác, các biến chứng của ĐTĐ đã có hay các bệnh nặng khác đi kèm cũng như nguy cơ bị biến chứng hạ đường huyết của bệnh nhân; -Các lợi ích từ việc tự theo dõi đường huyết thường xuyên bao gồm làm cải thiện việc kiểm soát đường huyết, tránh được biến chứng hạ đường huyết và làm tăng sự mềm dẻo trong lối sống. Các bệnh nhân hiểu biết rõ về giá trị của tỷ lệ HbA1C của mình có thể có cách đánh giá chính xác hơn về việc kiểm soát đường huyết và hiểu biết rõ ràng hơn về chăm sóc bệnh ĐTĐ, giúp bệnh nhân dễ dàng đạt được HbA1C mục tiêu hơn; -Tích cực điều trị tăng đường huyết, rối loạn lipid máu và tăng huyết áp với cùng mức độ để làm giảm nhiều nhất nguy cơ bị các biến chứng tim mạch như rối loạn lipid máu, tăng huyết áp, tiền sử hút thuốc lá cũng được xác định là các yếu tố dự báo có ý nghĩa về tử vong do các bệnh lý tim mạch, đặc biệt là người bị ĐTĐ. Có thể làm giảm 58% nguy cơ tử vong do bệnh động mạch vành khi làm giảm được các yếu tố này. Do vậy, việc điều trị tích cực đường huyết cũng phải được ưu tiên tương tự như điều trị rối loạn lipid máu và tăng huyết áp; -Chuyển tất cả các bệnh nhân mới phát hiện ĐTĐ đến các đơn vị chuyên điều trị ĐTĐ khi có thể. Hầu hết các bệnh nhân này cần một chế độ thuốc điều trị khá phức tạp đòi hỏi chuyên môn cao nhằm đạt được sự cân bằng và phù hợp nhất giữa các thuốc, bao gồm các thuốc điều trị ĐTĐ, điều trị tăng huyết áp và rối loạn lipid máu, aspirin và các thuốc chống béo phì. Một chế độ thuốc phức tạp như vậy đòi hỏi phải được xem xét lại cẩn thận tại mỗi lần tái khám; -Hiểu rõ về sinh lý bệnh học của bệnh ĐTĐ type 2, bao gồm cả việc điều trị tình trạng đề kháng insulin. Khoảng 80-85% bệnh nhân ĐTĐ type 2 có đề kháng insulin, cùng với tình trạng suy các tế bào sản xuất ra insulin. Sự chuyển đổi từ sự dung nạp đường huyết bình thường thành rối loạn dung nạp đường huyết và đến ĐTĐ đều có sự giảm nhạy cảm với insulin và suy giảm chức năng tế bào bêta kéo theo sự mất kiểm soát đường huyết. Kháng insulin cũng có sự liên quan chặt chẽ với một số các yếu tố nguy cơ tim mạch khác và là một yếu tố nguy cơ độc lập bị các bệnh tim mạch. Do vậy, cả kháng insulin và rối loạn chức năng tế bào bêta đều là các mục tiêu quan trọng để can thiệp điều trị nhằm làm cải thiện tiên lượng cho bệnh nhân ĐTĐ type 2; -Điều trị sớm và hiệu quả bằng cách phối hợp thuốc để đạt được HbA1C dưới 6,5% trong vòng 6 tháng. Phương thức điều trị kinh điển ĐTĐ type 2 là kiểm soát đường huyết theo từng bước. Điều trị theo từng bước thường gây ra sự chậm trễ không thể chấp nhận được cả về sự đạt được và duy trì đường huyết mục tiêu. Nhiều người chỉ với một thời gian ngắn bị tăng đường huyết cũng sẽ làm tăng nguy cơ bị các biến chứng vi mạch và biến chứng mạch máu lớn. Chiến lược điều trị mới là phối hợp sớm các thuốc với liều thấp có thể làm cải thiện việc kiểm soát đường huyết mà không làm tăng các tác dụng phụ; -Cần xem xét đến việc phối hợp điều trị. Điều trị ĐTĐ týp 2 một cách tích cực hơn và nên sớm phối hợp thuốc để điều trị nếu sau 3 tháng điều trị mà không đạt HbA1C dưới 6,5%, cùng song song với việc tăng cường thay đổi chế độ ăn và tập luyện thể lực; -Bắt đầu phối hợp thuốc điều trị hay sử dụng ngay insulin cho tất cả các bệnh nhân có HbA1C trên 9% tại thời điểm được chẩn đoán. Chế độ điều trị cần nhằm vào mục tiêu hạ đường huyết xuống càng gần bình thường và càng sớm càng tốt. Các bệnh nhân có đường huyết khá cao (HbA1C trên 9%) thì nên phối hợp thuốc điều trị ngay từ đầu với 2 thuốc điều trị đái tháo đường có tác dụng bổ sung cho nhau. Trong một số tình huống, đặc biệt nếu bệnh nhân bị bệnh béo phì, lý tưởng là sử dụng insulin cho các bệnh nhân này để nhanh chóng làm giảm HbA1C trước khi chuyển sang sử dụng thuốc ĐTĐ loại uống; -Sử dụng phối hợp các thuốc ĐTĐ có cơ chế tác dụng bổ sung cho nhau. Một lý do làm cho tỷ lệ bệnh nhân đạt được mục tiêu điều trị thấp là sự thiếu hiểu biết về hiệu quả của một số thuốc điều trị ĐTĐ của các bác sĩ. Do vậy hướng điều trị mới là nên lựa chọn các thuốc có các tác dụng hỗ trợ nhau và sự lựa chọn này phụ thuộc vào đặc điểm của từng người bệnh, tuy nhiên cần cân nhắc thận trọng các yếu tố như tác dụng ngoại ý, giá cả, giúp bệnh nhân vừa tiếp cận được thuốc tốt nhất mà không quá sức chi trả; -Nâng cao nhận thức về bệnh và biết cách tự chăm sóc của người bệnh. Sự tuân thủ uống thuốc điều trị ĐTĐ thường kém hơn những liệu pháp điều trị khác (như sử dụng thuốc giảm lipid máu). Sự hiểu biết về mức độ trầm trọng của bệnh ĐTĐ type 2 cũng làm cho người bệnh chủ quan. Bên cạnh đó, sự phức tạp của bệnh và thời gian tư vấn của các bác sĩ hạn chế đã làm người bệnh không nhận thức hết mức độ trầm trọng của bệnh cũng như tầm quan trọng của việc tuân thủ chế độ điều trị. Các bác sĩ cần phải thấy được tầm quan trọng của việc tư vấn, giáo dục và động viên bệnh nhân cũng như các thành viên trong gia đình tuân thủ chế độ điều trị và biết cách tự kiểm soát đường huyết của mình tôt hơn; -Có thể thực hiện các xét nghiệm này tại nhà, đây là xét nghiệm đã được cơ quan FDA Mỹ chứng nhận cho phép sử dụng tại nhà. Tuy nhiên, khác với một số xét nghiệm tại nhà khác, muốn làm xét nghiệm này thì cần phải có chỉ định của bác sĩ. Đã có nỗ lực của quốc tế để tiêu chuẩn hóa những xét nghiệm HbA1c, nhiều tổ chức đang làm việc với nhau trong chương trình tiêu chuẩn hóa Glycohemoglobin quốc gia và / hoặc Liên đoàn hóa sinh lâm sàng y học quốc tế (IFCC); -Với phương pháp của IFCC, các bác sĩ và bệnh nhân sẽ được thông báo và huấn luyện lại vì kết quả cho ra có thể sẽ khác so với kết quả của phương pháp hiện đang được sử dụng. Trong tương lai xa, nỗ lực này sẽ làm cho xét nghiệm A1C trở nên thích hợp với tiêu chuẩn quốc tế.
|