Liên quan đến thiếu hoặc thừa Ferritine
Ferritine thể hiện sắt dưới dạng dự trữ, đo bằng thông số Ferritine, dạng này được cất giữ trong các kho TIBC (Total Iron Buiding Capacity) hay CTF còn gọi là tổng khoang dự trữ của Fe và giá trị thông số này thay đổi tùy theo từng người. Xét nghiệm Ferritin là một trong những thử nghiệm máu để biết số lượng chất sắt tích trữ trong cơ thể bình thường, thừa hay thiếu. Các thông số xét nghiệm khác thường tiến hành đồng thời với Ferritin là hàm lượng sắt trong máu, transferrin, khả năng kết hợp sắt toàn phần (TIBC_Total iron biding capacity), phần trăm của chất bão hòa. Các xét nghiệm này thường tiến hành khi trên lâm sàng khám thấy hoặc nghi ngờ tình trạng thiếu máu nói chung hoặc nghĩ đến một tình trạng bệnh lý nào khác như hội chứng chân không yên (restless leg syndrome) hoặc nghi ngờ cả tình trạng dư thừa chất sắt trong máu. Trong trường hợp chất sắt qúa cao thì phải xem ccó thể dư chát sắt do di truyền (hemochromatosis) hay do bệnh truyền máu nhiều chất sắt, thể hiện Fe dưới dạng ứ đọng trong các mônhư lách, tim, gan,… (hemosiderosis).
Fe được thể hiện trong cơ thể dưới 3 dạng Ferritin, Transferrin, Hemosiderin. Các chất này tự chuyển hóa theo sơ đồ dưới đây:
Transferrin↔Ferritin↔Hemosiderin
Ferritin tăng cao trong máu cũng có thể do bệnh lý về gan hoặc bệnh lý ác tính nào đó.
Liên quan đến thiếu hoặc thừa chất sắt
Sắt là nguyên tố phổ biến trong tự nhiên, quan trọng trong trao đổi điện tử. Nó là một yếu tố kiểm soát quá trình tổng hợp DNA. Các tiến trình có hiệu quả cho phép các cơ thể sống vận chuyển và dự trữ nguyên tố kém hoà tan nhưng có tính hoạt động cao. Sắt là một thành phần quan trọng trong tổng hợp hemoglobine và myoglobine. Sắt còn tham gia vào thành phần một số enzyme oxy hoá khử như catalase, peroxydase và cytochrome. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc sản xuất ra năng lượng oxy hoá, vận chuyển oxy, hô hấp của ty lạp thể và bất hoạt các gốc oxy có hại. Do đó thiếu sắt sẽ gây ra tình trạng thiếu máu thiếu sắt và ảnh hưởng đến hoạt động chuyển hoá của tế bào do thiếu hụt các men chứa sắt. Ngược lại quá tải sắt trong cơ thể cũng gây ra ứ đọng sắt tại các mô như tim, gan, tuyến nội tiết..... dẫn đến rối loạn trầm trọng chức năng các cơ quan này.Quá trình hấp thu sắt bắt đầu tại dạ dày nhưng chủ yếu diễn ra tại hành tá tràng và ở mức độ ít hơn tại đoạn đầu ruột non. Để có thể hấp thu được sắt phải chuyển từ dạng ferric (Fe3+) sang dạng ferrous (Fe2+). Pepsin tách sắt khỏi các hợp chất hữu cơ và chuyển thành dạng gắn với các axit amin hoặc đường. Axit clohydric khử Fe3+ thành Fe2+ để dễ hấp thu. Vitamin C cũng có vai trò tương tự trong quá trình này. Sự kiểm soát quá trình hấp thu sắt và lượng sắt được hấp thu vào máu tĩnh mạch cửa phụ thuộc vào nhu cầu sắt của cơ thể và kho dự trữ sắt của cơ thể. Trong trường hợp thiếu sắt một lượng sắt lớn hơn được hấp thu qua riềm bàn chải vào tế bào niêm mạc ruột và vào máu đi về tĩnh mạch cửa. Ngược lại trong trường hợp cơ thể quá tải sắt, lượng sắt được hấp thu vào tế bào niêm mạc ruột sẽ giảm đi. Một yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình hấp thu sắt là sự điều hoà hấp thu sắt ngay tại riềm bàn chải của ruột non. Lượng sắt được hấp thu thừa sẽ kết hợp với apoferritin để hình thành ferritin nằm trong bào tương tế bào niêm mạc ruột. Ferritin này sẽ được thải vào lòng ruột khi tế bào biểu mô ruột bị bong ra.
Ngoại trừ một số ít trường hợp quá tải sắt nặng sắt tự do không có trong huyết tương do sắt được gắn với transferrin ở máu tĩnh mạch cửa. Sắt được vận chuyển bởi transferrin. Transferrin là một protein có trọng lượng phân tử 80000. Transferrin được tổng hợp tại gan và có nửa đời sống khoảng 8-10 ngày. 1 phân tử transferrin có thể gắn với 2 phân tử sắt. Sau khi sắt tách ra transferrin tiếp tục gắn với những nguyên tử sắt mới. Bình thường có khoảng 1/3 transferrin bão hoà sắt. Tỷ lệ này có thế thay đổi trong các bệnh lý thiếu hoạc quá tải sắt. Transferrin chủ yếu lấy sắt từ các đại thực bào của hệ liên võng nội mô. Chỉ có một lượng nhỏ sắt được lấy từ sắt hấp thu qua đường tiêu hoá hàng ngày. Người ta thấy rằng các đại thực bào giải phóng sắt theo chu kỳ trong ngày với lượng sắt giải phóng cao nhất vào buổi sáng và thấp nhất vào buổi chiều. Do đó nồng độ sắt trong huyết tương cũng được thấy cao nhất vào buổi sáng và thấp nhất vào buổi chiều.
Các nguyên hồng cầu lấy sắt cần thiết cho quá trình tổng hợp Hb từ transferrin. Các nguyên hồng cầu rất giàu các receptor với transferrin. Ngoài ra một lượng ít sắt cũng được chuyển đến các tế bào không phải hồng cầu. Trong trường hợp quá tải sắt, lượng sắt trong huyết tương tăng lên và transferrin bị bão hoà hết. Khi đó sắt được chuyển đến các tế bào ở nhu mô các cơ quan khác nhau như gan, tim, các tuyến nội tiết gây các biểu hiện bệnh lý do ứ đọng sắt. Bình thường các hồng cầu chết bị thực bào tại các tế bào đại thực bào của hệ liên võng nội mô. Một phần nhỏ sắt giải phóng ra từ sự phân huỷ Hb sẽ đi vào huyết tương và phần lớn được dự trữ trong các đại thực bào dưới dạng ferritin và hemosiderin. Lượng dự trữ này nhiều hay ít tuỳ thuộc vào tình trạng và lượng sắt có trong cơ thể và nhu cầu của cơ thể.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hấp thu sắt trong cơ thể
Yếu tố làm tăng hấp thu sắt | Yếu tố làm giảm hấp thu sắt |
Dạng ferrous (Fe2+) | Dạng ferric (Fe3+) |
Sắt vô cơ | Sắt hữu cơ |
Môi trường axit (HCl), vitamin C | Môi trường kiềm |
Các yếu tố hoà tan (axit amin ...) | Các yếu tố gây kết tủa sắt |
Thiếu sắt trong cơ thể | Thừa sắt |
Tăng tổng hợp hồng cầu | Giảm tổng hợp hồng cầu |
Tăng nhu cầu (có thai) | Nhiễm khuẩn, viêm mạn tính |
Hemochromatose | Các thuốc thải sắt (desferoxamin) |
Thừa chất sắt
Tình trạng thừa sắt, nếu không có biện pháp điều trị, hoặc ngăn ngừa có thể gây ra hậu quả nguy hiểm như chậm phát triển ở trẻ em, tổn thương và suy giảm chức năng gan, tim và các tuyến nội tiết, sinh dục, tiểu đường, thậm chí gây tử vong. Các gốc tự do được tạo ra trong quá trình ô xy hoá khử của sắt được cho là nguyên nhân trực tiếp gây phá hủy các cơ quan trong cơ thể.
Theo nhóm tác giả Nhật Bản Kohgo Y , Ikuta Kvà cộng sự, đang công tác tại khoa tiêu hóa, khoa huyết học và ung bướu, đại học y khoa Asahikawa cho biết sắt là một kim loại cần thiết cho cơ thể, trong khi sự tích tụ sắt vượt mức gây rối loạn chức năng cơ quan. Có một quá trình cân bằng chính xác và phức tạp, tinh vi của quá trình chuyển hóa chất sắt về dự trữ và vận chuyển, điều này điều hòa bởi một số yếu tố, gồm peptide hepcidin. Vì không có cơ chế bài tiết thụ động cho sắt, sắt dễ dàng tích tụ khi sắt quá tải từ ngoài đưa vào (do yếu tố di truyền, truyền máu và bệnh lý khác). Sắt tự do, sắt không gắn transferrin, sắt huyết tương không bền vững lưu hành trong máu và sắt trong các tế bào chịu trách nhiệm gây độc do quá tải sắt.
Đặc điểm đặc trưng của tình trạng quá tải sắt là suy các cơ quan sống nhuw gan, tim và tuyến nội tiết. Để đánh giá sắt trong cơ thể có nhiều phương pháp gián tiếp cũng như trực tiếp hiện đang sẵn có. Thông số ferritin huyết thanh là thuạn lợi nhất và dùng rộng rãi nhất, đủ độ đặc hiệu đánh giá vấn đề. Gần đây, phương pháp phát hiện sử dụng cộng hưởng từ để định lượng đã áp dụng để đánh giá nồng độ sắt trong gan và trong cơ tim.
Bộ Y tế Anh vừa đưa ra lời cảnh báo rằng dùng sắt bổ sung quá liều có thể gây chết người ở trẻ nhỏ và các loại thuốc viên chứa sắt phải được giữ ngoài tầm với của trẻ. Trong vòng vài tháng nữa, lời cảnh báo này sẽ xuất hiện trên tất cả các sản phẩm chứa sắt bổ sung bày bán tại Anh. Theo giáo sư Alasdair Breckenridge, Chủ tịch Uỷ ban An toàn Thuốc của Anh, phụ nữ mang thai và các bà mẹ cho con bú thường dùng sắt bổ sung hằng ngày trong khẩu phần ăn, nhưng họ chưa ý thức được sự nguy hiểm của sắt đối với trẻ nhỏ. Hằng năm, tại Anh, có khoảng 600 trẻ dưới 4 tuổi nhập viện do nuốt phải các viên sắt, trong đó có trung bình 1 trường hợp tử vong. Nếu dùng đúng liều, thuốc này rất an toàn. Tuy nhiên, khi uống quá liều, hệ thống điều hoà bình thường của cơ thể bị suy yếu và sắt sẽ được hấp thu với một lượng lớn, có thể gây chết người. Việc nuốt hơn 10 viên sắt loại thông dụng nhất (sulfate sắt 200 mg) có thể khiến trẻ nhỏ tử vong. Trẻ dùng thuốc quá liều phải được cấp cứu ngay.
Thiếu máu dinh dưỡng
Thiếu máu dinh dưỡng là tình trạng bệnh lý xảy ra khi hàm lượng huyết cầu tố (Hb) trong máu xuống thấp hơn bình thường do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu. Theo số liệu điều tra trong nước và trên thế giới thì thiếu máu dinh dưỡng rất phổ biến, trung bình có khoảng 30% dân số thế giới bị thiếu máu. Đối tượng hay bị thiếu máu nhất là trẻ em và phụ nữ có thai. Tại Việt Nam có đến 60% số trẻ em ở độ tuổi 6 - 24 tháng và 30 - 50% số phụ nữ có thai bị thiếu máu. Thiếu máu có thể do nhiễm ký sinh trùng như giun, sán (nhất là giun móc, tóc) và sốt rét, do mất máu, do bệnh lý về huyết sắc tố (Hb), do thiếu dinh dưỡng.
Về ý nghĩa sức khoẻ cộng đồng thì thiếu máu do thiếu dinh dưỡng, đặc biệt là thiếu sắt, thiếu axit folic thiếu vitamin B12 là phổ biến hơn cả. Nguyên nhân thường gặp nhất là do lượng sắt cung cấp từ ǎn uống không đủ nhu cầu hàng ngày. Lượng sắt thực tế hiện nay của bữa ǎn người Việt Nam chỉ đạt khoảng 30 đến 50% nhu cầu nhất là ở các vùng nông thôn.
Do vậy, tỷ lệ thiếu máu do thiếu sắt ở các vùng này thường rất cao. Nhóm trẻ em và phụ nữ có nhu cầu rất lớn về sắt nên dù ǎn uống tốt cũng không thể cung cấp đủ; mặt khác ở nhiều vùng nông thôn do bữa ǎn còn nghèo nàn, lượng thức ǎn động vật còn ít, trẻ em ǎn sam chưa đúng cách, ... do đó rất có nguy cơ bị thiếu máu.
Thiếu máu, thiếu sắt là quá trình diễn ra từ từ, thường ban đầu không có triệu chứng rõ rệt. Khi lượng sắt dự trữ trong cơ thể cạn kiệt thì biểu hiện bên ngoài mới xuất hiện như mệt mỏi, chóng mặt, hoa mắt, da xanh xao, móng tay móng chân sần, mất bóng...Phụ nữ có nguy cơ thiếu sắt lớn do do nhu cầu khá cao (15 mg mỗi ngày, trong khi đó chế độ ăn thường chỉ cung cấp khoảng 10 mg). Do đó, để bảo đảm duy trì sức khỏe, bạn nên uống viên sắt mỗi tuần một lần bên cạnh chế độ dinh dưỡng cân đối.
Thiếu máu sẽ dẫn đến một số hậu quả và một số dấu hiệu giúp nhận biết thiếu máu:
·Làm giảm khả nǎng lao động: khi thiếu máu, khả nǎng vận chuyển khí oxy của hồng cầu bị giảm, làm thiếu oxy ở các tổ chức, đặc biệt tim, cơ bắp, não, gây nên các hiện tượng tim đập mạnh, hoa mắt, chóng mặt, cơ bắp yếu và cuối cùng là cơ thể nhanh chóng mỏi mệt, giảm khả nǎng lao động chân tay và trí óc;
·Khả nǎng học tập, phát triển trí tuệ của học sinh bị kém. Thiếu máu làm giảm lượng oxy của tổ chức não và tim, làm trẻ nhanh bị mỏi mệt, hay ngủ gật, khó tập trung tư tưởng dẫn đến kém tiếp thu bài. Những dấu hiệu này thường được khắc phục sau khi bổ sung viên sắt;
·Làm tǎng nguy cơ đẻ non, tǎng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của mẹ và con khi sinh, dễ bị chảy máu và bị mắc các bệnh nhiễm trùng ở thời kỳ hậu sản;
§Với trẻ em: thường có các dấu hiệu da xanh, niêm mạc môi, lưỡi nhợt nhạt. Trẻ thường kém hoạt bát, nếu đã đi học thường học kém, hay buồn ngủ. Dễ bị các bệnh nhiễm trùng;
§Phụ nữ có thai: thường gặp là da xanh, niêm mạc nhợt, mệt mỏi, khi thiếu nặng thường có dấu hiệu chóng mặt, tim đập nhanh;
§Xét nghiệm máu sẽ cho chẩn đoán chính xác, nên làm xét nghiệm tổng thể công thức máu toàn phần. Các thông số đáng lưu ý là lượng hồng cầu, lượng Hb, lượng Hb giảm thấp hơn mức quy định là bị thiếu máu, hematocrite.
Phòng chống thiếu máu dinh dưỡng
-Biện pháp cải thiện chế độ ǎn, đa dạng hoá bữa ǎn, ǎn nhiều loại thức ǎn khác nhau nhất là nguồn thức ǎn động vật có nhiều sắt như thịt, gan, trứng, tiết, thức ǎn giàu vitamin C như rau quả. Thức ǎn có nguồn gốc động vật (thịt, cá, trứng) có nhiều sắt và sắt có chất lượng cao, dễ được cơ thể hấp thu và sử dụng.
-Thức ǎn nguồn gốc thực vật (ngũ cốc, gạo, ngô, rau) thường có lượng sắt thấp và sắt chất lượng kém, làm cơ thể khó hấp thu, một số rau quả nhiều vitamin C, lại có tác dụng hỗ trợ hấp thu sắt tốt hơn. Nếu chỉ bổ sung các thực phẩm giàu chất sắt sẽ không thể làm tăng lượng hồng cầu trong máu, mà phải kết hợp giữa sắt và protein, đặc biệt là protein động vật, mới làm tăng khả năng hấp thụ sắt. Vì vậy, trong bữa ăn nên có các thịt đỏ, thịt gà và cá;
-Nếu bạn ăn chay thì cần ăn nhiều các loại rau lá xanh (cải chíp, cải làn, bạc hà...). Đậu nành, bánh mỳ làm từ bột mỳ nguyên cám, ngũ cốc bổ sung sắt, khoai tây, nho khô, mận khô và đậu lăng, đậu hà lan... đều rất giàu chất sắt. Các loại quả giàu chất sắt gồm: quả lựu, mơ (đặc biệt là mơ khô, mứt mơ), mận, chuối và nho đen;
-Bổ sung viên sắt cho các đối tượng có nguy cơ cao: nữ lứa tuổi từ 13 trở lên, cần được uống viên sắt dự phòng, mỗi tuần uống một viên để tạo nguồn sắt dự trữ đầy đủ cho cơ thể. Khi có thai cần kết hợp ǎn uống tốt với uống viên sắt đều đặn, mỗi ngày một viên (60mg sắt) trong suốt thời gian mang thai cho tới sau khi sinh 1 tháng. Bổ sung sắt cho trẻ em là rất cần thiết, nhưng cần có chỉ định và theo dõi của thầy thuốc;
-Tǎng cường sắt vào thực phẩm, hiện nay đang nghiên cứu tǎng cường sắt vào thức ǎn (bánh biscuit, nước mắm, ..) nhằm đưa một lượng sắt đủ cho nhu cầu qua những thức ǎn này;
-Phối hợp với các chương trình chǎm sóc sức khỏe ban đầu, phòng chống nhiễm khuẩn, vệ sinh môi trường, phòng chống giun sán.
Uống viên sắt - axit folic như thế nào?
Viên thuốc này sẽ được hấp thu tốt nhất nếu bạn uống vào khoảng giữa hai bữa ăn, đặc biệt là khi bạn dùng với nước cam hoặc nước trái cây. Tránh uống thuốc với nước trà, cà phê, rượu, coca cola vì sẽ làm giảm hấp thu sắt, do “cản” hấp thu chất sắt vào cơ thể vì vậy nên giảm dần và loại bỏ chúng khỏi chế độ ăn uống hằng ngày.
Sắt và axit folic là hai vi chất cực kỳ quan trọng đối với phụ nữ tuổi sinh đẻ và cho đứa con tương lai. Nhu cầu về sắt tăng rất cao trong giai đoạn mang thai. Còn axit folic giúp phòng dị tật bẩm sinh, nhất là dị tật ống thần kinh. Do vậy, việc tăng cường sắt và axit folic nên được làm ngay khi bạn mới dự định có thai.
Để dự phòng thiếu máu do thiếu sắt, bạn có thể uống viên sắt - axit folic 1 viên mỗi tuần, uống 16 tuần một năm. Để tránh táo bón trong thời gian ưống viên sắt, chúng ta nên chọn thuốc chứa sắt dưới dạng sắt hữu cơ như Ferrovit, Top’hem. Ngoài ra, nên uống nhiều nước và ăn nhiều chất xơ.
Uống viên sắt bổ sung có thể gây ra chứng táo bón vì vậy nhất thiết phải bổ sung chất xơ trong chế độ ăn mỗi khi bạn uống loại vi chất này. Các loại rau củ tăng cường chất xơ tốt nhất là các loại rau củ làm sa lát như: dưa chuột, cà chua, củ cải đường, củ cải trắng, hành tây và cà rốt. Thêm một chút nước cốt chanh để tăng hương vị và cũng là để bổ sung thêm vitamin C, một vi chất giúp hấp thụ sắt tốt hơn. Nếu chứng táo bón không thuyên giảm thì bạn cần trao đổi với bác sĩ để lựa chọn hình thức bổ sung sắt khác phù hợp hơn.
Vitamin C có vai trò rất quan trọng với cơ thể như tham gia tạo colagen và một số thành phần tạo nên các mô liên kết ở cơ, da, xương, mạch máu; tham gia vào các quá trình chuyển hóa của cơ thể như protid, lipid, glucid; tham gia vào quá trình tổng hợp một số chất như catecholamin, hormon vỏ thượng thận; tăng tạo interferon, làm giảm nhạy cảm của cơ thể với histamin, chống stress nên giúp tăng sức đề kháng cho cơ thể; kết hợp với vitamin A, vitamin E chống ô xy hóa bằng cách trung hòa các gốc tự do sản sinh ra từ các phản ứng chuyển hóa, nhờ đó bảo vệ được tính toàn vẹn của màng tế bào.
Đặc biệt vitamin C có vai trò rất quan trọng trong việc hấp thu sắt của cơ thể, khi chúng ta uống viên sắt (ở dạng hợp chất, có hóa trị 2) nhưng chỉ sắt hóa trị 3 mới được hấp thu ở tá tràng, do đó để hấp thu được cần có quá trình chuyển từ sắt hóa trị 2 thành sắt hóa trị 3 (quá trình này xảy ra tại ruột non), mà quá trình này muốn xảy ra bắt buộc phải có sự xúc tác của vitamin C, nên nếu thiếu vitamin C sẽ gây thiếu máu do thiếu sắt, chính vì vậy bác sĩ mới khuyên bạn khi uống viên sắt cần uống kèm với vitamin C.
Lưu ý là không uống bổ sung viên sắt cùng thời điểm với canxi bổ sung hay các loại axit amin vì chúng sẽ làm giảm khả năng hấp thụ sắt của cơ thể.
Tài liệu tham khảo
1.Trần Thị Kiều My, Nguyễn Hà Thanh (2009). Chuyển hóa chất sắt trong cơ thể và quá tải sắt ở một số bệnh máu
2.Trương Thị Như Ý (2009). Sức khỏe & Đời sống, số Chủ nhật ra ngày 22/2/2009 – Số 31 (2396).
3.Kohgo Y , Ikuta Ket al.,(2008). Body iron metabolism and pathophysiology of iron unnecessary overload. Int J Hematol. 2008 Jul; 88 (1) :7-15. Epub 2008 Jul 2. EPUB 2008 Jul 2.