Home TRANG CHỦ Chủ nhật, ngày 24/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Finance & Retail Tư vấn sức khỏe
Hỏi-Đáp
Y học thường thức
Kiến thức phổ thông
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 2 0 4 7 2 0
Số người đang truy cập
3 0 0
 Tư vấn sức khỏe
Gói ORS dạng bột, pha với nước thành dung dịch oresol (ảnh minh họa)
ORS bù nước và chất điện giải như thế nào?

Trong các trường tiêu chảy cấp ở mức độ nhẹ và vừa, bác sĩ thường khuyến cáo người bệnh sử dụng ORS (oral rehydration salts) uống để bù nước và chất điện giải. Khi chưa được pha chế thường gọi là ORS ở dạng bột hoặc viên sủi nhưng khi đã được pha chế với nước thì gọi là dung dịch oresol. Đây là loại thuốc bù nước và chất điện giải dùng khá phổ biến trong cộng đồng nên cần biết về những vấn đề cơ bản.

Cơ chế tác dụng của ORS

Con người khi tiêu hóa bình thường, chất lỏng chứa thức ăn và các dịch tiêu hóa đến hồi tràng chủ yếu dưới dạng một dung dịch muối đẳng trương giống huyết tương về hàm lượng chất natri và kali. Hồi tràng hấp thu khoảng 10% dung dịch này bằng các cơ chế vận chuyển tích cực khác nhau. Phần còn lại được bài tiết vào phân để giữ cho phân không bị khô. Các tế bào ruột non có chức năng vừa hấp thu vừa xuất tiết dịch và các chất điện giải nhưng chủ yếu là hiện tượng hấp thu. Trong trường hợp đi tiêu chảy cấp, nhiều tác nhân gây nhiễm làm thay đổi hoạt động ở niêm mạc ruột non, ức chế hấp thu hoặc kích thích xuất tiết. Một lượng lớn dịch xuất tiết ra không được đại tràng hấp thu hết và bị tống ra ngoài dưới dạng phân lỏng nhiều nước. Các loại muối chủ yếu và nước bị mất theo phân và chất nôn. Tình trạng mất nước bắt đầu ngay từ lần đầu đi phân lỏng. Khi mất dịch dưới 5% trọng lượng cơ thể thì dấu hiệu biểu hiện đầu tiên là khát nước. Nếu mất dịch trên 5% trọng lượng cơ thể thì các triệu chứng thường xuất hiện như nhịp tim nhanh, da nhăn, mắt trũng, hạ huyết áp, dễ bị kích thích, đi tiểu ít hoặc không có nước tiểu; có dấu hiệu khát nước nhiều, trạng thái tê mê hoặc hôn mê xuất hiện nhanh. Nếu lượng nước mất khoảng 10% trọng lượng cơ thể, người bệnh có thể bị sốc và nặng hơn có thể dẫn đến tử vong. Thực tế trên lâm sàng đối với với người bệnh bị tiêu chảy cấp, chỉ định đầu tiên và quan trọng nhất là phải bù nước và các chất điện giải. Nước và các chất điện giải bị mất do tiêu chảy có thể được bù lại bằng cách uống dung dịch có chứa natri, kali và glucose hoặc carbohydrat như bột gạo nhưng bắt buộc luôn luôn phải có thành phần glucose phối hợp với natri. Cơ chế duy trì hệ thống đồng vận chuyển glucose - natri trong niêm mạc ruột non là cơ sở của điều trị bù nước và các chất điện giải dạng uống. Glucose được hấp thu tích cực ở ruột bình thường và kéo theo natri được hấp thu theo tỷ lệ khoảng cân bằng phân tử. Do đó sự hấp thu dung dịch muối đẳng trương có glucose tốt hơn là không có glucose. Tuy vậy nếu dùng quá liều glucose hoặc sacarose để uống và tăng giá trị dinh dưỡng cho trẻ nhỏ có thể làm tăng nguy cơ tiêu chảy do tác dụng thẩm thấu của glucose chưa hấp thu còn ở trong ruột. Dung dịch uống bù nước và chất điện giải có tinh bột gạo tốt hơn có glucose. Khi bột vào cơ thể sẽ được thủy phân dần thành glucose và duy trì hệ thống vận chuyển glucose - natri. Công thức dùng tinh bột gạo còn có ưu điểm hơn do ít gây tác dụng thẩm thấu và cung cấp nhiều năng lượng hơn so với dung dịch điện giải có glucose. Việc bù chất kali trong tiêu chảy cấp đặc biệt quan trọng đối với trẻ em vì trẻ thường bị mất kali trong phân cao hơn người lớn. Bicarbonat hoặc citrat được thêm vào dung dịch uống bù nước và chất điện giải có tác dụng ngang nhau trong việc khắc phục nhiễm toan chuyển hóa do mất nước. Nếu việc điều trị được bắt đầu sớm trước khi chức năng thận bị tổn hại thì thận có khả năng bù bất kỳ mức độ nào của toan chuyển hóa và thiếu hụt kali. Nếu bồi phụ nước và chất điện giải ngay từ dấu hiệu tiêu chảy đầu tiên thì các tổn hại này sẽ bị ngăn chặn và các biện pháp mạnh như truyền dịch tĩnh mạch trở nên không cần thiết. Có thể nói ORS hay dung dịch oresol là loại thuốc bù nước và điện giải được hấp thu tốt qua đường tiêu hóa, sự hấp thu natri và nước của ruột được tăng lên bởi glucose và các carbohydrat. Vì vậy được chỉ định dùng để phòng và điều trị mất chất điện giải và nước trong các trường hợp tiêu chảy cấp từ thể nhẹ đến thể vừa.


ORS dạng viên sủi, pha với nước thành dung dịch oresol (ảnh minh họa)

Điều cần thận trọng và trường hợp chống chỉ định

ORS hay dung dịch oresol cần thận trọng khi dùng cho người bệnh bị suy tim sung huyết, phù hoặc tình trạng giữ natri vì dễ có nguy cơ gây tăng natri huyết, tăng kali huyết, suy tim hoặc phù; người bệnh bị suy thận nặng hoặc xơ gan. Trong quá trình điều trị, cần theo dõi cẩn thận nồng độ các chất điện giải và thăng bằng kiềm toan. Lưu ý cần cho trẻ bú sữa mẹ hoặc cho uống nước giữa các lần uống dung dịch bù nước và chất điện giải để tránh tăng natri huyết. Dung dịch oresol có thể dùng an toàn cho phụ nữ mang thai và những người mẹ đang cho con bú sữa. Chống chỉ định dùng dung dịch bù nước và chất điện giải trong các trường hợp bệnh nhân không có nước tiểu hoặc có nước tiểu ít vì thực tế cơ thể cần có chức năng thận bình thường để có thể đào thải bất lỳ lượng nước tiểu hoặc chất điện giải thừa. Người bệnh không có nước tiểu hoặc có ít nước tiểu kéo dài cần phải tiêm truyền nước và chất điện giải một cách chính xác, tuy nhiên tình trạng có ít nước tiểu nhất thời là một nét đặc trưng của mất nước do tiêu chảy nên trong trường hợp này không chống chỉ định liệu pháp bù nước bằng đường uống. Đồng thời cũng chống chỉ định dùng trong những trường hợp mất nước nặng kèm theo triệu chứng sốc vì bù nước bằng đường uống sẽ quá chậm mà thực tế cần phải điều trị nhanh chóng bằng đường tiêm truyền tĩnh mạch. Ngoài ra, ORS hay dung dịch oresol không nên dùng trong trường hợp tiêu chảy nặng khi tình trạng tiêu chảy vượt quá 30 ml/kg cân nặng cơ thể mỗi giờ, người bệnh có thể không uống được đủ nước để bù lượng nước bị mất liên tục. Trường hợp bệnh nhân nôn nhiều và kéo dài, bị tắc ruột, liệt ruột, thủng ruột cũng chống chỉ định dùng dung dịch bù nước và chất điện giải.


Liều lượng và cách dùng

Phải hòa tan các gói hay viên sủi ORS với nước đun sôi để nguội để có dung dịch oresol theo hướng dẫn cụ thể được ghi trên từng loại chế phẩm, sau đó cho người bệnh uống dung dịch đã pha theo liều lượng quy định. Để bù nước trong các trường hợp mất nước nhẹ bắt đầu cho uống 50 ml/kg cân nặng trong 4 - 6 giờ, nếu mất nước vừa phải bắt đầu cho uống 100 ml/kg cân nặng trong vòng 4 - 6 giờ. Sau đó điều chỉnh liều lượng và thời gian sử dụng tùy theo mức độ khát nước và đáp ứng với điều trị. Ở trẻ em nên cho uống từng thìa một, uống liên tục cho đến hết liều lượng đã quy định, không nên cho trẻ uống quá nhiều cùng một lúc vì sẽ gây nôn. Để duy trì nước trong trường hợp tiêu chảy liên tục nhẹ cho uống dung dịch với liều lượng 100 - 200 mg/kg cân nặng/24 giờ cho đến khi hết tiêu chảy, nếu bị tiêu chảy liên tục nặng cho uống dung dịch với liều lượng 15 ml/kg cân nặng mỗi giờ cho đến khi hết tiêu chảy. Đối với người lớn liều lượng giới hạn tối đa 1.000 ml/giờ. Lưu ý ở trẻ em nên tính liều lượng dùng theo trọng lượng cơ thể sẽ tốt hơn theo nhóm tuổi. Đối với trẻ nhỏ cần cho uống từng ít một, uống chậm và chia làm nhiều lần; nếu chưa đến 24 giờ mà trẻ đã uống hết 150 ml dung dịch/kg cân nặng thì nên cho uống thêm nước bình thường để tránh tăng natri huyết và đỡ khát nước. Cần tiếp tục cho ăn uống bình thường càng sớm càng tốt khi bù lại được lượng dịch đã thiếu và khi có dấu hiệu thèm ăn trở lại, đặc biệt những đứa trẻ bú sữa mẹ cần phải được bú sữa giữa các lần uống dung dịch. Nên cho người bệnh ăn kèm các loại thức ăn mềm như cháo gạo, chuối, đậu, khoai tây hoặc các thức ăn nhiều bột nhưng không có lactose. Chú ý tránh dùng các loại thức ăn hoặc dung dịch khác chứa chất điện giải như nước quả hoặc thức ăn có muối cho tới khi ngừng điều trị để hạn chế dùng quá nhiều chất điện giải hoặc xảy ra tình trạng tiêu chảy do hiện tượng thẩm thấu. Một vấn đề cũng cần được quan tâm là dung dịch bù nước và chất điện giải oresol không được pha loãng thêm với nước vì nếu pha loãng sẽ làm giảm tính hấp thu của hệ thống đồng vận chuyển glucose - natri. Nên bảo quản ORS dạng bột hay viên sủi chưa pha thành dung dịch ở nơi thoáng mát ở nhiệt độ dưới 30oC. Dung dịch đã pha cần được bảo quản trong tủ lạnh để dùng tối đa trong vòng 24 giờ, sau đó phải bỏ đi không được dùng nếu lượng dung dịch còn trong ngày. Nếu dùng quá liều lượng quy định với ORS pha đậm đặc, dung dịch bù nước và chất điện giải oresol sẽ gây nên triệu chứng quá liều gồm: tăng natri huyết làm hoa mắt, chóng mặt, tim đập nhanh, tăng huyết áp, cáu gắt, sốt cao... và dấu hiệu thừa nước như mi mắt húp nặng, phù toàn thân, suy tim. Trong trường hợp này cần điều trị tình trạng tăng natri huyết bằng cách truyền tĩnh mạch chậm dung dịch nhược trương và cho uống nhiều nước, nếu có hiện tượng thừa nước phải ngừng uống dung dịch bù nước và chất điện giải, đồng thời sử dụng thuốc lợi tiểu nếu cần.

Lời khuyên của thầy thuốc

Mặc dù việc sử dụng ORS dạng bột hay viên sủi để pha dung dịch oresol nhằm xử trí bù nước và chất điện giải trong các trường hợp bị tiêu chảy cấp ở mức độ nhẹ và vừa khá phổ biến nhưng cộng đồng cần phải có những hiểu biết cần thiết trước khi dùng để bảo đảm tính an toàn, hiệu quả, nhất là đối với trẻ em. Phải quan niệm rằng ORS hay dung dịch oresol là một loại thuốc, vì vậy nên lưu ý đến những điều cần thận trọng và các trường hợp chống chỉ định cũng như liều lượng sử dụng hợp lý để đạt được kết quả điều trị tốt. 

Ngày 12/10/2016
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh  
    Các nội dung khác »

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích