|
Ngày nay, ngày càn nhiều cán bộ công nhân viên nữ tham gia vào các hoạt động xã hội . |
Tổ chức và kế hoạch hoạt động của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ thuộc Bộ Y tế
Năm 2008 là năm đưa Nghị quyết 11-NQ/TW của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết Đại hội phụ nữ Việt Nam lần thứ X vào cuộc sống, tiếp tục đẩy mạnh triển khai Luật bình đẳng giới, Luật phòng chống bạo lực gia đình. Đặc biệt là năm bản lề thực hiện kế hoạch hành động vì sự tiến bộ phụ nữ (VSTBPN) Việt Nam ngành y tế giai đoạn 2006-2010. Tổ chức hoạt độngBan vì sự tiến bộ phụ nữ ngành y tếTheo Quyết định số 4263/QĐ-BYT ngày 10/11/2005 của Bộ Y tế, Ban VSTBPN ngành y tế gồm 12 thành viên do ông Trần Chí Liêm-Ủy viên Ban cán sự Đảng-Thứ trưởng Bộ Y tế làm Trưởng Ban, ông Trịnh Đình Cần- Ủy viên Ban cán sự Đảng-Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ làm Phó trưởng Ban, bà Phạm Thị Luyên-Phó Chủ tịch Công đoàn Y tế Việt Nam làm Phó Trưởng Ban thường trực và bà Trần Thanh Tâm-Trưởng Ban nữ công-Công đoàn Y tế Việt Nam làm Ủy viên Thư ký. Theo Quyết định số 2704/QĐ-BYT ngày 1/8/2006 của Bộ Y tế bổ sung bà Trần Thị Giáng Hương-Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế làm Ủy viên; Quyết định số 1602/QĐ-BYT ngày 9/5/2008 bổ sung bà Trần Hoa Mai-Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ-Tổng Cục dân số & kế hoạch hóa gia đình làm Phó Trưởng ban, ông Nguyễn Quốc Anh-Giám đốc Trung tâm thông tin & dữ liệu dân số-Tổng cục dân số làm Ủy viên. Như vậy đến nay Ban VSTBPN ngành y tế có tổng số 15 thành viên,để giúp việc cho Ban này, còn có Thường trực Ban gồm 5 thành viên. Ban VSTBPN ngành y tế có nhiệm vụ quán triệt và thực hiện đầy đủ quan điểm bình đẳng giới trong ngành y tế; xây dựng và triển khai thực hiện có hiệu quả kế hoạch hành động VSTBPN; thường xuyên theo dõi, đôn đốc và kiểm tra tình hình thực hiện chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước đối với phụ nữ trong ngành y tế; tuyên truyền và phổ biến kịp thời chủ trương của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước đối với phụ nữ và Công ước của Liên hiệp quốc về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (CEDAW); xây dựng, duy trì và hoạt động có hiệu quả Ban VSTBPN của các đơn vị trong ngành y tế. Ban vì sự tiến bộ phụ nữ ngành y tế các cấpKiện toàn màng lưới tổ chức Ban VSTBPN các đơn vị trực thuộc Bộ Y tế theo quy định tại Kế hoạch hành động số 56/KH-BYT ngày 23/1/2006. Đơn vị có từ 50 nữ trở lên, kiện toàn Ban VSTBPN + tên đơn vị, số lượng là 5-7 ủy viên; đơn vị có dưới 50 nữ, số lượng là 3-5 ủy viên do Giám đốc hoặc Phó Giám đốc đơn vị làm Trưởng Ban, Trưởng Phòng Tổ chức cán bộ làm Phó Ban, đại diện lãnh đạo các phòng/ban làm ủy viên, Thường trực Ban là chuyên viên Phòng TCCB hoặc nữ công. Đối với Sở Y tế tỉnh, thành phố kiện toàn Ban VSTBPN theo chỉ đạo, hướng dẫn của Ban VSPTPN tỉnh, thành phố. Ban VSTBPN các cấp cần xây dựng kế hoạch cụ thể hàng năm và xác định rõ các chỉ tiêu phấn đấu cho từng năm để làm cơ sở triển khai thực hiện kế hoạch hành động VSTBPN giai đoạn 2006-2010 và tiến hành đánh giá sơ kết, tổng kết. Kinh phí đảm bảo cho hoạt động của Ban VSTBPN các đơn vị được trích từ nguồn kinh phí ngân sách của đơn vị theo Luật ngân sách Nhà nước quy định, đồng thời cần chủ động huy động sự tài trợ của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài ngành. Mục tiêu hoạt động: Mục tiêu tổng quát: Phát huy vai trò trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn thể và cán bộ công chức viên chức, lao động toàn ngành nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ y tế trong công yác chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân; xây dựng gia đình hạn phúc, tích cực tham gia có hiệu quả vào các hoạt động cải thiện sức khỏe phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là phụ nữ vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu cụ thể: (i)Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ y tế trong các lĩnh vực lao động; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ y tế. (ii)Thực hiện quyền bình đẳng của phụ nữ y tế trong học tập, đào tạo; tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ y tế được học tập nâng cao trình độ mọi mặt. (iii)Thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ ngành y tế, phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành và các tổ chức đoàn thể; vận động nữ CBCCVCLĐ trong ngành thực hiện hiệu quả hoạt động chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân nhằm góp phần cải thiện sức khỏe phụ nữ Việt Nam. (iv)Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên mọi lĩnh vực công tác, tăng cường sự tham gia của phụ nữ trong bộ máy lãnh đạo các cấp. (v)Tăng cường năng lực và hiệu quả hoạt động của Ban vì sự tiến bộ phụ nữ y tế các cấp. Biện pháp thực hiện: (i)Công tác tuyên truyền giáo dục: thường xuyên quán triệt sâu sắc đến CBCCVCLĐ toàn ngành về quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Quán triệt đầy đủ các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các chế độ chính sách của ngành y tế liên quan đến lao động nữ. Tổ chức các hoạt động tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về giới, về công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ và bình đẳng giới. Tuyên truyền giáo dục trong cộng đồng về các chương trình chăm sóc sức khỏe dành cho phụ nữ và trẻ em, về đạo đức người phụ nữ Việt Nam và đạo đức thày thuốc; các tấm gương cá nhân, tập thể điển hình tiên tiến trong triển khai thực hiện kế hoạch hành động VSTBPN. (ii)Phối hợp với các Bộ, Sở, Ban ngành, các tổ chức đoàn thể trung ương và địa phương để triển khai đồng bộ các nội dung kế hoạch hành động VSTBPN giai đoạn 2006-2010 trong các chương trình công tác của địa phương, đơn vị. (iii)Công tác kiểm tra giám sát sẽ được tiến hành định kỳ hàng năm từ 20-25% các đơn vị trong ngành; kiểm tra đột xuất với các đơn vị có thành tích nổi bật tiêu biểu để phổ biến nhân rộng kịp thời trong toàn ngành hoặc kiểm tra các đơn vị có nhiều khó khăn trong tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động để kịp thời có biện pháp tháo gỡ. (iv)Báo cáo định kỳ 6 tháng/lần trước 10/6, báo cáo năm trước 10/12 hoặc báo cáo đột xuất bằng văn bản về ban VSTBPN ngành y tế (Vụ TCCB-Bộ Y tế và Ban Tuyên giáo-Nữ công Công đoàn Y tế Việt Nam). Tiến hành sơ tổng kết, biểu dương, khen thưởng hàng năm và đề nghị khen thưởng lên Ban VSTBPN ngành y tế; tổng kết 5 năm theo sự chỉ đạo của Ủy ban quốc gia VSTBPN Việt Nam.
|