Home TRANG CHỦ Thứ 4, ngày 27/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Finance & Retail Thầy thuốc và Danh nhân
Việt Nam
Thế giới
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 2 3 3 4 8 1
Số người đang truy cập
6 9 9
 Thầy thuốc và Danh nhân Việt Nam
Nhà hoạt động cách mạng yêu nước Nguyễn Thái Học

Một số nét về nhà cách mạng Nguyễn Thái Học

Nguyễn Thái Học là sinh viên và nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng vũ lực lật đổ chính quyền thuộc địa Pháp để thành lập một nước độc lập Việt Nam Cộng Hòa. Ông sáng lập Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) năm 1927 và lãnh đạo cuộc Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại, ông bị Pháp áp giải từ ngục thất Hỏa LòHà Nội lên Yên Bái chặt đầu cùng với 12 đảng viên VNQDĐ vào sáng sớm ngày 17 tháng 6 năm 1930.

Nguyễn Thái Học sinh ngày 1 tháng 12 năm Quý Mão (1902) tại làng Thổ Tang, tổng Lương Điền, phủ Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Yên (nay là xã Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc). Ông là con cả của cụ Nguyễn Văn Hách và bà Nguyễn Thị Quỳnh. Gia đình ông là một gia đình trung nông sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, buôn vải. Từ 4 tuổi ông đã được cha mẹ cho đi học chữ Hán và năm 11 tuổi ông bắt đầu theo học chương trình tiểu học Pháp-Việt tại thị xã Vĩnh Yên.

Năm 19 tuổi ông thi đậu vào trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội và nhận học bổng của Chính phủ Bảo hộ Pháp. Do tính tình cương trực và không thích khuất phục lối giáo dục của người Pháp, ông bỏ học năm thứ ba và sau đó ghi danh học trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương (1925-1927). Trong thời gian này, ông tham gia thành lập Nam Đồng Thư Xã, và tiếp xúc với một số sinh viên đồng chí hướng, trong số đó có Phó Đức Chính, sinh viên trường Cao đẳng Công chánh và Hồ Văn Mịch, sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm, hai nhà cách mạng tương lai sẽ gắn liền với cuộc đời cách mạng của ông sau này. Cũng trong thời gian là sinh viên của Đại học Đông Dương, Nguyễn Thái Học đã gửi cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varrenne một số bức thư kêu gọi chính quyền thực dân Pháp tiến hành một loạt cải cách tiến bộ ở Việt Nam. Sở dĩ Nguyễn Thái Học gửi những đề xuất cải cách của mình cho Varrenne vì ông ta vốn là một đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, người vừa mới tới nhậm chức toàn quyền đã quyết định ân xá Phan Bội Châu và hứa hẹn nhiều cải cách rộng lớn ở xứ thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, đó chỉ là những lời hứa suông, và ông ta không bao giờ quan tâm, trả lời những bức thư đầy tâm huyết của Nguyễn Thái Học.

Hoàn toàn thất vọng về con đường cải cách của chính quyền thuộc địa, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đi đến quyết định là: con đường duy nhất để mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường dùng vũ trang lật đổ chế độ thực dân Pháp và chế độ phong kiến, thành lập một nước Việt Nam Cộng Hòa và thiết lập một nền dân chủ trên toàn cõi Đông Dương

Nguyễn Thái Học - Vị lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân Đảng, một trí thức yêu nước bất khuất

Thuở nhỏ, Nguyễn Thái Học được gia đình cho học chữ Hán. Sau đó ông theo học trường phổ thông Pháp - Việt tại tỉnh lỵ Vĩnh Yên. Ngay từ lúc mới 15, 16 tuổi Nguyễn Thái Học thường được thế hệ cha anh kể cho nghe chuyện về Đội Cấn và một số phong trào chống Pháp nên đã sớm giác ngộ lòng yêu nước. Ông ngầm nuôi ý chí đánh đổ chế độ thực dân Pháp, giải phóng dân tộc và trả thù rửa hận cho các chiến sĩ yêu nước đã bị thực dân Pháp giết hại.

Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Tiểu học, năm 1921, Nguyễn Thái Học thi đỗ vào Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Trong thời gian gần 3 năm học ở trường này, Nguyễn Thái Học đã nhiều lần công khai phản đối thái độ và hành vi phân biệt, miệt thị người bản xứ của một số giám thị và giáo viên người Pháp. Trùm mật thám Louis Marty từng nhận xét: "Nguyễn Thái Học là một học sinh bướng bỉnh, hay cãi lại thầy giáo".

Sau khi tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sư phạm (1924), Nguyễn Thái Học có tham dự kỳ thi tuyển công chức của chính quyền thực dân, nhưng sau khi thi đỗ ông lại không nhậm chức mà nộp đơn xin học Trường Cao đẳng Thương mại thuộc Đại học Đông Dương. Trong thời gian Nguyễn Thái Học học tập tại Đại học Đông Dương (1925 - 1927) đã diễn ra nhiều chuyển biến rất quan trọng trong phong trào yêu nước Việt Nam. Trước đó, từ cuối năm 1923 những bài diễn thuyết sục sôi của Nguyễn An Ninh ở Sài Gòn, rồi tờ báo La Cloche fêlée (Chuông rè) của ông đã góp phần mạnh mẽ thức tỉnh tinh thần yêu nước của thanh niên, sinh viên cả nước. Năm sau, ngày 19.6.1924 tiếng bom Sa Diện của Phạm Hồng Thái trong cuộc mưu sát hụt toàn quyền Đông Dương Martial Merlin và tấm gương hy sinh dũng cảm của người thanh niên yêu nước này đã làm chấn động toàn cõi Việt Nam, thúc giục các tầng lớp nhân dân, nhất là thanh niên hăng hái dấn thân vào con đường cứu nước.
 

Tháng 11.1925, mật thám Pháp bí mật bắt cóc Phan Bội Châu tại Thượng Hải. Chúng đưa cụ về giam ở Hoả Lò (Hà Nội), định bí mật thủ tiêu. Khi tin tức về sự kiện này lọt ra ngoài, lập tức một phong trào đấu tranh sục sôi của nhân dân cả nước đã bùng nổ, đòi thực dân Pháp phải đưa cụ Phan ra xét xử công khai và cuối cùng, phải tuyên bố ân xá nhà yêu nước lão thành này. Đầu năm sau, Phan Chu Trinh, một lãnh tụ lớn khác của phong trào yêu nước từ đầu thế kỷ XX, đã trở về Sài Gòn sau nhiều năm lưu trú ở nước ngoài. Ngày 24.3.1926 Phan Chu Trinh tạ thế ở Sài Gòn. Ngay sau đó, một phong trào để tang cụ được nhân toàn quốc hưởng ứng mạnh mẽ.

Cũng trong những năm này ảnh hưởng của tư tưởng cách mạng Trung Quốc, đặc biệt là học thuyết Tam dân của Tôn Trung Sơn cũng dội mạnh vào Việt Nam và được nhiều thanh niên, trí thức nhiệt liệt đón chào. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về tới Quảng Châu (Trung Quốc) liên lạc với nhóm thanh niên Việt Nam yêu nước trong tổ chức Tâm Tâm xã và lập ra Hội Việt Nam Kách mệnh Thanh niên (6.1925), ra tờ báo Thanh niên kêu gọi thanh niên trí thức yêu nước hăng hái đứng lên lãnh đạo quần chúng nhân dân đấu tranh đập tan gông xiềng nô lệ thực dân, giải phóng dân tộc.

Trong bối cảnh đó, hàng nghìn thanh niên, trí thức đã hăng hái dấn thân, tham gia tích cực vào các hoạt động yêu nước. Nguyễn Thái Học là một trong những người sớm tham gia tích cực và đi đầu trong làn sóng đấu tranh đó. Ngay khi còn đang là sinh viên Đại học Đông Dương, cuối năm 1926, cùng với một số thanh niên trí thức yêu nước khác như Phạm Tuấn Lâm, Phạm Tuấn Tài, Hồ Văn Mịch v.v., ông đã lập ra Nam Đồng thư xã ở Hà Nội. Cũng giống như Cường học thư xã của nhóm thanh niên yêu nước do Trần Huy Liệu đứng đầu lập ra ở Sài Gòn, Nam Đồng thư xã vừa giống như một nhà xuất bản, một hiệu sách đồng thời như một nhóm biên soạn, tập trung vào việc biên soạn, dịch thuật, phát hành sách báo phổ biến các tư tưởng cách mạng, đặc biệt là tư tưởng Tôn Trung Sơn, ca ngợi các tấm gương nghĩa liệt, những anh hùng cứu quốc là người Việt Nam và nước ngoài. Thông qua đó, Nam Đồng thư xã cổ vũ mạnh mẽ cho phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp, và trên thực tế Nam Đồng thư xã đã trở thành một trong những nơi quy tụ thanh niên, trí thức yêu nước ở Bắc Kỳ.

Cũng trong thời gian là sinh viên của Đại học Đông Dương, từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Thái Học đã gửi cho Toàn quyền Đông Dương Alexandre Varrenne một số bức thư kêu gọi chính quyền thực dân Pháp tiến hành một loạt cải cách tiến bộ ở Việt Nam. Sở dĩ Nguyễn Thái Học gửi những đề xuất cải cách của mình cho A. Varrenne vì ông ta vốn là một đảng viên của Đảng Xã hội Pháp, vừa mới tới nhậm chức toàn quyền đã quyết định ân xá Phan Bội Châu và hứa hẹn nhiều cải cách rộng lớn ở xứ thuộc địa Đông Dương. Tuy nhiên, đó chỉ là những lời hứa suông, và ông ta không bao giờ quan tâm, trả lời những bức thư đầy tâm huyết của Nguyễn Thái Học.

Hoàn toàn thất vọng về con đường cải cách, Nguyễn Thái Học và các đồng chí của ông đi đến quyết định là: con đường duy nhất để mở ra cơ hội phát triển cho dân tộc Việt Nam chỉ có thể là con đường dùng vũ trang lật đổ chế độ thực dân Pháp, sau đó tự mình tiến hành công cuộc kiến thiết đất nước. Nguyễn Thái Học và nhóm Nam Đồng thư xã khẩn trương chuẩn bị để lập ra một tổ chức yêu nước bí mật. Ông đành thôi học và dành toàn bộ thời gian cho việc chuẩn bị về tư tưởng và tổ chức cho công cuộc cứu nước mới. Sau một thời gian chuẩn bị, đêm ngày 24.12.1927 một hội nghị đã được tổ chức tại Hà Nội với nòng cốt là nhóm Nam Đồng thư xã, đã quyết định lập ra Việt Nam Quốc dân Đảng. Nguyễn Thái Học được Hội nghị bầu làm Chủ tịch đảng.
 

Sau khi thành lập, dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Thái Học, Việt Nam Quốc dân Đảng đẩy mạnh công tác xây dựng và phát triển cơ sở trong các tầng lớp dân chúng trên cả nước, nhất là ở Bắc Kỳ và Nam Kỳ. Đảng đã liên lạc và sáp nhập thêm tổ chức Việt Nam dân quốc ở Bắc Giang do Nguyễn Khắc Nhu đứng đầu. Gia nhập Việt Nam Quốc dân Đảng còn có thêm các nhóm nhân sĩ và trí thức yêu nước ở Bắc Ninh do Nguyễn Thế Nghiệp tổ chức, nhóm khác ở Thanh Hoá do Hoàng Văn Đào đứng đầu, một nhóm ở Thái Bình do Hà Đình Điển tổ chức và một nhóm ở Sài Gòn do Trần Huy Liệu đứng đầu. Cơ sở tổ chức của Việt Nam Quốc dân Đảng phát triển tương đối nhanh trong năm 1928 và đầu năm 1929, thu hút hàng nghìn thanh niên trí thức, công chức và binh lính Việt Nam yêu nước trong quân đội Pháp. Việt Nam Quốc dân Đảng cũng cử người bắt liên lạc với Hội Việt Nam Kách mệnh Thanh niên và Tân Việt Cách mạng Đảng để bàn thảo việc thống nhất về tổ chức và phối hợp hoạt động vì mục đích giải phóng dân tộc.

Trong quá trình hoạt động, nhiều đảng viên của Việt Nam Quốc dân Đảng đã bị ảnh hưởng của tư tưởng anh hùng cá nhân, phiêu lưu, mạo hiểm. Ngày 9.2.1930, nhóm đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng ở Hà Nội đã tổ chức ám sát trùm mộ phu đồn điền Bazin làm chấn động dư luận Pháp, khiến cho chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương hoang mang. Để đối phó, thực dân Pháp đã mở một chiến dịch đàn áp, truy quét gắt gao các chiến sĩ yêu nước và cách mạng. Do tổ chức khá lỏng lẻo, cơ sở tổ chức của Việt Nam Quốc dân Đảng bị đánh phá nghiêm trọng, hàng trăm đảng viên bị bắt hoặc bị giết. Riêng đối với Nguyễn Thái Học, linh hồn của Việt Nam Quốc dân Đảng, thực dân Pháp treo giải thưởng 5.000 đồng bạc Đông Dương cho ai bắt hoặc giết được ông.

Trong tình hình khẩn trương như vậy, tại Hội nghị lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng ngày 1.7.1929, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính đã quyết định không thể ngồi chờ thực dân Pháp lùng bắt, giết hại, phá tan đảng, mà phải gấp rút chuẩn bị và tiến hành một cuộc "tổng khởi nghĩa vũ trang" để một mặt đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước trong dân chúng, củng cố uy tín của đảng, và nếu có thất bại thì "Không thành công cũng thành nhân".Với tinh thần quyết tử, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí, trong đó có bà Nguyễn Thị Giang, người vợ vừa đính hôn của ông, dồn tâm sức chuẩn bị cho một cuộc vùng lên quyết liệt. Các cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng ra sức chuẩn bị vũ khí, đúc bom tự tạo, mua súng, tiến hành binh vận. Trong khi đó, thực dân Pháp cũng tung hết lực lượng mật thám ra truy lùng, cài gián điệp vào các cơ sở của đảng, quyết tâm bắt hoặc giết bằng được Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu và bộ chỉ huy đầu não của Việt Nam Quốc dân Đảng, hòng dập tắt cuộc bạo động từ trong trứng nước.

Được tin Việt Nam Quốc dân Đảng đang nỗ lực chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang trong điều kiện khách quan chưa chín muồi, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, khi đó đang hoạt động ở Bắc Xiêm (Thái Lan) lập tức lên đường đi về nam Trung Quốc để tìm cách bắt liên lạc, bàn với Nguyễn Thái Học và các lãnh tụ Việt Nam Quốc dân Đảng hoãn cuộc bạo động lại, nhưng không kịp. Theo kế hoạch ban đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra trên hai địa bàn chính ở Bắc Kỳ vào đêm ngày 9.2.1930. Nguyễn Thái Học sẽ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, trong khi Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính được phân công chỉ huy cuộc nổi dậy ở miền núi. Gần tới ngày nổi dậy, do cơ sở ở miền xuôi tương đối yếu lại bị đánh phá nặng nề nên không chuẩn bị kịp, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc nổi dậy tới ngày 15.2.

Tuy nhiên, liên lạc viên lại bị địch bắt giữa đường. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một loạt các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10.2.1930. Quyết liệt nhất là cuộc khởi nghĩa ở Yên Bái. Quân nổi dậy đã chiếm được một phần đồn binh Pháp và làm chủ tỉnh lỵ Yên Bái trong gần hai ngày. Do không có sự phối hợp với các cuộc nổi dậy ở địa phương khác, cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng đã nhanh chóng bị thực dân Pháp đàn áp và dập tắt. Tuy vậy, ngày 15.2.1930, mặc dù cuộc khởi nghĩa ở miền núi đã thất bại, Nguyễn Thái Học và cơ sở Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn quyết định khởi nghĩa ở miền xuôi như kế hoạch cũ. Cuộc vùng lên quyết liệt nhất là ở Phụ Dực (Thái Bình) và Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương).

Thực dân Pháp quyết định dùng vũ lực tối đa để đàn áp cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân Đảng và khủng bố tinh thần yêu nước của dân chúng. Chúng tung toàn bộ lực lượng mật thám, quân đội, bảo an ra lùng sục, càn quét, hòng bắt giam và giết hại các chiến sĩ Việt Nam Quốc dân Đảng. Chúng còn cho 5 chiếc máy bay đến ném bom triệt hạ làng Cổ Am, căn cứ của Việt Nam Quốc dân Đảng trong cuộc khởi nghĩa ở Vĩnh Bảo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử chính quyền thực dân của một cường quốc phương Tây phải sử dụng tới máy bay chiến đấu để đàn áp một cuộc nổi dậy của dân chúng bản xứ.

Được sự che chở của quần chúng yêu nước, Nguyễn Thái Học vẫn thoát khỏi sự truy lùng ráo riết của thực dân Pháp. Cùng với một số yếu nhân còn lại của Việt Nam Quốc dân Đảng ông bàn bạc và dự định cải tổ lại đảng và thay đổi phương hướng chiến lược của Đảng. Chính vào lúc công việc này mới được khởi động thì ngày 20.2.1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương). Ông bị Hội đồng Đề hình thực dân kết án tử hình ngày 23.3.1930. Ngày 17.6.1930, thực dân Pháp đã hành quyết Nguyễn Thái Học và 12 chiến sĩ khác của Việt Nam Quốc dân Đảng tại Yên Bái bằng máy chém. Trước khi hy sinh, Nguyễn Thái Học còn cố hô to "Việt Nam vạn tuế!"

Cuộc khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc dân Đảng tuy thất bại nhưng thực sự là một dấu son chói lọi trong lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta. Với tư cách là người sáng lập và lãnh đạo Việt Nam Quốc dân Đảng, Nguyễn Thái Học thực sự là một trong những người tiêu biểu nhất thuộc lớp trí thức Tây học sớm dấn thân, xả thân cứu nước trong nửa đầu thế kỷ XX. Tấm gương hy sinh dũng cảm của ông trở thành một nguồn động viên, cổ vũ mạnh mẽ các thế hệ thanh niên trí thức yêu nước sau này trong cuộc đấu tranh gian khổ, ác liệt lâu dài vì độc lập và tự do của tổ quốc. Nguyễn Thái Học "không thành công" nhưng đã thực sự "thành nhân". Ông được Nhà nước CHXHCN Việt Nam công nhận là liệt sĩ (24.2.1976) và tên của ông được đặt cho một trong những con phố lớn tại Hà Nội.

Thành lập Việt Nam Quốc Dân Đảng và hoạt động cách mạng

Năm 1927, tổ chức Nam Đồng Thư Xã quyết định ủng hộ cuộc khởi nghĩa Bắc Ninh do Quản Trạc lãnh đạo. Công việc bị bại lộ, đa số thành viên của Nam Đồng Thư Xã bị thuyên chuyển hoặc bị truy lùng phải đào tẩu, chỉ còn lại Nguyễn Thái Học và một số ít đồng chí. Tháng 10 năm này, ông triệu tập số người còn lại và đưa ra ý định thành lập một đảng cách mạng bí mật, dùng vũ lực lật đổ thực dân Pháp. Đảng này mang tên Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) và chi bộ đảng đầu tiên mang tên là "Chi Bộ Nam Đồng Thư Xã", do ông làm chi bộ trưởng, gồm các ủy viên: Hồ Văn Mịch, Phó Đức Chính, Lê Văn Phúc, Hoàng Văn Tùng, Hoàng Phạm Trân, và một số đồng chí khác. [3] Tháng 12 năm 1927, VNQDĐ tổ chức đại hội đảng lần thứ nhất và bầu ông làm Chủ tịch Tổng bộ đảng, kiêm Chủ tịch đảng. Dưới sự lãnh đạo của ông, VNQDĐ bắt đầu phát triển rất nhanh chóng để kết nạp tầng lớp trí thức, giáo viên, nông dân, công chức, binh sĩ trong guồng máy cai trị với mục đích dùng bạo động lật đổ chính quyền thực dân Pháp, thành lập một chế độ cộng hòa dân chủ độc lập trên toàn cõi Việt Nam. Đến đầu năm 1929, VNQDĐ đã thành lập được 120 chi bộ tại Bắc kỳ với 1500 đảng viên.

Năm 1929, tại Bắc kỳ và Bắc Trung kỳ có cao trào mộ phu, đưa dân đi làm phu cho các đồn điền cao su tại các nơi như miền Nam, Miên, Lào, Nouvelle-CalédonieNouvelles-Hébrides, nơi những người phu này trở thành nô lệ cho các chủ đồn điền. Một trong những người mua nô lệ nổi tiếng là Bazin tại Hà Nội. Ông này chuyên dụ dỗ hay bắt cóc dân đem làm phu lấy lợi. Mặc dù không được sự chấp thuận của Tổng Bộ và Nguyễn Thái Học, ba đảng viên thuộc một Thành bộ VNQDĐ gồm Nguyễn Văn Viên, Nguyễn Văn Lân, và Nguyễn Đức Lung đã tự ý ám sát ông Bazin vào ngày 9 tháng 2 năm 1929 tại Chợ Hôm, Hà Nội. Nhân vụ ám sát, Pháp khởi sự đàn áp nhằm tiêu diệt VNQDĐ trong khi cơ sở của họ chưa kịp chuẩn bị ứng phó trước kế hoạch khủng bố trắng của chính quyền thuộc địa. Sở mật thám Bắc Việt được một nội ứng phản đảng tên Bùi Tiên Mai chỉ điểm, và bắt giam 227 đảng viên VNQDĐ, nhưng không bắt được hai lãnh tụ đảng lúc đó là Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu, chủ tịch Ban Hành pháp VNQDĐ nhiệm kỳ 3.

Sau khi Bùi Tiên Mai nhận diện và đối chứng với những đồng chí tại các phiên tòa Hội đồng Đề hình, ban ám sát VNQDĐ tổ chức giết người này vì tội phản đảng và quên lời thề trước bàn thờ tổ quốc. Trên đường hành thích, sự việc bị đổ bể và một đảng viên bị chết, một bị tù cấm cố 10 năm. Hai đảng viên khác, Nguyễn Văn Kinh và Nguyễn Văn Ngọc, khi bị bắt do mật thám tra tấn dã man đã khai báo và chỉ điểm cho Pháp mọi đường đi nước bước của các yếu nhân lãnh đạo của VNQDĐ. Ban ám sát VNQDĐ cũng tổ chức giết hai người này, tuy thành công nhưng thêm một số đảng viên bị bắt và hành hình qua các vụ ám sát này. Để xử các tù nhân chính trị này, Toàn quyền Pháp Pasquier quyết định không giao cho Biện lý cuộc, nhưng ký nghị định thành lập một Hội đồng Đề hình (Commission criminelle) để tuyên án và xử tội. Hội đồng này trả tự do cho 149 người và kết án 78 người từ 2 đến 15 năm tù tại các tỉnh thượng du Bắc Việt hoặc lưu đày ra Côn Đảo, và mỗi người bị cộng thêm một án 5 năm biệt xứ. Lực lượng của VNQDĐ bị suy yếu, tổn thất nặng nề, và hoàn toàn rơi vào thế bị động sau việc ám sát ông Bazin. Các lãnh tụ buộc phải tiến hành cuộc khởi nghĩa 8 tháng sau đó để tránh cho các cơ sở đang gặp nguy cơ bị tiêu diệt hoặc tan rã.

Đến cuộc khởi nghĩa Yên Bái

Trước tình thế hàng ngũ đảng có nhiều phản bội, thực dân áp bức gay gắt có chiều hướng đưa đến tan rã, trung tuần tháng 5 năm 1929, Nguyễn Thái Học triệu tập đại hội đảng toàn quốc tại làng Đức Hiệp, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, quyết định chuẩn bị tổng khởi nghĩa. Công việc chuẩn bị chưa hoàn tất, cuối năm 1929 tại Bắc Giang một cơ sở chế bom bị tai nạn phát nổ và đầu năm 1930 người Pháp bắt giữ và khám phá được thêm rất nhiều cơ sở chế tạo bom, đao, kiếm và nhiều đảng viên bị bắt. Trước tình hình nguy cấp, Nguyễn Thái Học triệu tập hội nghị khẩn cấp, quyết định tiến hành khởi nghĩa tại các địa điểm Hưng Hóa, Lâm Thao, Phú Thọ, Yên Bái, Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Bắc Ninh, Đáp Cầu, Phả LạiHà Nội vào đêm mồng 10, rạng ngày 11 tháng 2 năm 1930.

Theo kế hoạch ban đầu cuộc khởi nghĩa vũ trang sẽ nổ ra trên hai địa bàn chính ở Bắc Kỳ vào đêm ngày 9 tháng 2 năm 1930. Nguyễn Thái Học sẽ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở miền xuôi, trong khi Nguyễn Khắc Nhu và Phó Đức Chính được phân công chỉ huy cuộc nổi dậy ở miền núi. Gần tới ngày nổi dậy, do cơ sở ở miền xuôi tương đối yếu lại bị đánh phá nặng nề nên không chuẩn bị kịp, Nguyễn Thái Học cử người báo cho Nguyễn Khắc Nhu hoãn cuộc nổi dậy tới ngày 15 tháng 2. Tuy nhiên, liên lạc viên lại bị địch bắt giữa đường. Vì vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra ở một loạt các địa điểm từ Sơn Tây, Phú Thọ cho tới Yên Bái vào đêm ngày 9, rạng sáng ngày 10 tháng 2. Tuy cuộc tổng nổi dậy xảy ra nhiều nơi khác nhau, nhưng lịch sử mệnh danh nó là cuộc Khởi nghĩa Yên Bái hay Tổng Khởi Nghĩa Yên Bái, cốt để vinh danh những cái chết hào hùng của các lãnh tụ Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, và 11 đảng viên VNQDĐ ở pháp trường Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm 1930. Quân nổi dậy đã chiếm được một phần đồn binh Pháp và làm chủ tỉnh lỵ Yên Bái trong gần hai ngày. Ngày 15 tháng 2 năm 1930, mặc dù cuộc khởi nghĩa ở miền núi đã thất bại, Nguyễn Thái Học và cơ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng vẫn quyết định khởi nghĩa ở miền xuôi như kế hoạch cũ. Cuộc vùng lên quyết liệt nhất là ở Phụ Dực (Thái Bình) và Vĩnh Bảo (lúc đó thuộc Hải Dương). Sự việc không thành, ngày 20 tháng 2 năm 1930, Nguyễn Thái Học bị bắt tại ấp Cổ Vịt (Chí Linh, Hải Dương).

Đền nợ nước

Pháp thành lập một Hội đồng Đề hình để xử các nghĩa quân VNQDĐ. Rất nhiều đảng viên VNQDĐ bị chung thân khổ sai, một số tự sát và bị hành hình như:

Sau khi hành quyết một số lãnh tụ và nghĩa quân của VNQDĐ tại Yên Bái, Pháp cho chôn chung một mộ tại thị xã Yên Bái, cách ga xe lửa độ một cây số, và cho lính canh giữ đến cuối năm 1930. Năm 1945, quân đội VNQDĐ chiếm đóng Yên Bái, cho trùng tu mộ phần của 17 vị anh hùng và lập đền thờ kỷ niệm. Khu mộ này sau được nhà nước Việt Nam trùng tu và xếp hạng di tích lịch sử văn hóa. Trong cuộc hội thảo ngày 24 tháng 12 năm 2003 tổ chức tại quê hương ông các nhà khoa học đã tôn vinh Nguyễn Thái Học là Anh hùng dân tộc.

Giai thoại và câu nói nổi tiếng

Theo Tế Xuyên thì khi Nguyễn Thái Học vào thi bằng thành chung thì đề tài bài thi là "Sự nghiệp của Jules Ferry". Nguyễn Thái Học viết trả lời vỏn vẹn có một câu: "Người Việt Nam không hề biết tên người này!". Không lạ gì khi ông bị đánh trượt.

Không thành công cũng thành nhân. Khi thụ án, ông có đọc trích đoạn một bài thơ

Tiếng Pháp

Dịch thơ tiếng Việt

"Mourir pour sa patrie,

"C'est le sort le plus beau

"Le plus digne... d'envie...

Chết vì tổ quốc,

Cái chết vinh quang,

Lòng ta sung sướng,

Trí ta nhẹ nhàng

Sau khi ông mất, sinh viên học sinh Huế tổ chức lễ truy điệu và đọc bài Văn tế các Tiên-liệt Việt Nam Quốc Dân Đảng sau đây do cụ Phan Bội Châu trước tác.

Gươm ba thước chọc trời kinh, chớp cháy, này Lâm Thao, này Yên Bái, này Vĩnh Bảo, khí phục thù hơi thở một tầng mây!

Súng liên thanh vang đất thụt, non reo, nào chủ đồn, nào xếp cẩm, nào quan binh, ma hút máu người bay theo ngọn gió.

Trách nông nỗi trời còn xoay tít, trước cờ binh sao quay gió cản ngăn;

Tiếc sự cơ ai quá lờ mờ, dưới trướng giặc bấy nhiêu tay len lỏi.

Ma cường quyền đắc thế sinh hùng uy,

Thần công lý bó tay nghe tử tội.

Ôi thôi, mù thảm mây sầu,

Gió cuồng mưa vội;

Cửa quỷ thênh thang!

Đường trời vòi vọi!

Nhân dân chí sĩ, sát thân vào luật dã man;

Nữ kiệt anh hùng, thất thế đang hồi đen rủi.

Trường tuyên án chị chị anh anh cười tủm tỉm, tức nỗi xuất sư vị tiệp,

vai bể non gánh nặng hãy trìu trìu,

Đoạn đầu đài sau sau trước bước ung dung, gớm gan thị tử như quy,

mặc cây cỏ máu tươi thêm chói chói.

Tuy kim cổ hữu hình thì hữu hoại, sóng Bạch Đằng, mây Tam Đảo, hơi sầu cuộn cuộn bóng rồng thiêng đành ông HỌC xa xuôi,

Nhưng sơn hà còn phách ắt còn linh, voi nàng Triệu, ngựa nàng Trưng, hình hạc gió, hãy cô GIANG theo đuổi.

Đoàn trẻ chúng tôi nay:

Tiếc nước còn đau,

Nghĩ mình càng tủi!

Nghĩa lớn khôn quên,

Đường xa dặm mỏi!

Giây nô lệ quyết rày mai cắt đứt, anh linh thời ủng hộ, mở rộng đường công nhẩy, bằng bay;

Bể lao lung đua thế giới vẫy vùng, nhân đạo muốn hoàn toàn, phải gắng sức rồng dành, cọp chọi,

Đông đủ người năm bộ lớn, đốt hương nồng, pha máu nóng, hồn thiên thu như sống như còn,

Ước ao trong bấy nhiêu niên, rung chông bạc, múa cờ vàng, tiếng vạn tuế càng hô càng trỗi.

Tình khôn xiết nói,

Hồn xin chứng cho,

Thượng hưởng!

Sào Nam Phan Bội Châu, (1932)

Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí theo thứ tự lên máy chém ngày 17-6-1930

Sáng ngày 23 tháng 3, hai đội lính Khố xanh vơ trang dưới quyền chỉ huy của giám binh Cases, phụ tá có rất đông thám tử do thanh tra mật thám la Reiner phụ trách áp giải 83 chiến sĩ VNQDĐ từ ngục thất tỉnh Yên Bái ra trước Hội đồng Đề hình nhóm phiên xử công khai tại trại binh tỉnh Yên Bái, Poulet Osier ngồi ghế chánh án. Bởi phòng xử quá hẹp, nên chỉ có mấy chục người vừa Pháp vừa Việt, là những người có thần thế mới được vào xem xử mà thôi. Để chứng tỏ công bằng, một sự công bằng chỉ huy, chính quyền thực dân cử 4 luật sư: Mandrette, Bona, Mayet va Demistre ra biện hộ cho bị cáo.

Bắt đầu buổi họp, hội đồng đề hình tuyên bố tha bổng cho các bị cáo: Vũ Hữu Hóa, Nguyễn Văn Trung, Đỗ Văn Ninh, Lê Văn Châu, còn lại 83 bị cáo chia ra như sau: 1 phụ nữ (Nguyễn Thị Bắc) 37 thường dân, 45 binh sĩ. Người bị gọi ra thẩm vấn đầu tiên là Nguyễn Thái Học. Với thái độ chững chạc, bình tĩnh, Nguyễn Thái Học nhận hết trách nhiệm và toan phân trần về lý do chính trị của cuộc khởi nghĩa, liền bị chủ tịch hội đồng chặn lại không cho nói. Nguyễn Thái Học nói to: Nếu vậy th́ì cái ṭa này là nơi đem cường quyền mà đàn áp công lý, ta còn nói nữa mà làm chi! và ta cũng không cần ai biện hộ cả!

Đến Phó Đức Chính, Chính tỏ thái độ cương quyết, tự nhận là ủy viên tuyên truyền cổ động các tỉnh, thảo truyền đơn giải cho các binh sĩ khuyên họ làm cách mạng, thảo chương tŕnh kế hoạch tổng khởi nghĩa.

Nguyễn Thị Bắc phản đối kịch liệt, đòi thả cô ra ngay và hô to: "Các người về ngay nước Pháp mà kéo đổ tượng Jeanne d'Arc đi thôi". Các chiến sĩ khác đều dũng cảm công nhận là có gia nhập VNQDĐ với mục đích là đánh đuổi người Pháp ra khỏi Việt Nam giành lại quyền độc lập cho Tổ quốc. Sau rốt, đến lượt các luật sư biện hộ với một luận điệu xin Hội đồng xét xử cho công bằng. Chỉ nên làm tội những người chủ mưu xướng xuất mà thôi và nên dung thứ cho những người a tòng. Đến hồi 10 giờ sáng hôm sau, Hội đồng Đề hình tuyên án:

39 người bị án tử hình;

33 người bị án khổ sai chung thân;

9 người bị án 20 năm khổ sai ;

5 người bị án tội đày trong số có cô Nguyễn Thị Bắc 5 năm tù ở.

Để mong gỡ nhẹ phần nào cho các đồng chí, Nguyễn Thái Học đã kư chống bản án lên Hội đồng Bảo Hộ để cho các đồng chí noi theo duy Phó Đức Chính không kư chống án. Poulet Osier hỏi tại sao. Họ Phó đáp: "Đại sự đã không thành! Chết là vinh! Còn chống án làm gì vô ích!"

Sau khi Hội đồng đề hình xử xong, Nguyễn Thái Học cùng các đồng chí của ông bị đưa về nhà giam tại ngục thất Hỏa Ḷ Hà Nội. Nhận thấy Hội đồng đề hình kết án tử hình tuy khá nhiều nhưng trước khi thi hành bản án, còn phải gửi qua Ba Lê (Paris) để Tổng Thống quyết định. Sự quyết định ấy là ân giảm, làm cho giới thực dân ở Pháp không bằng lòng. Các báo chí Pháp ở Đông Dương đều la lớn: "Phải già tay như vậy mới được. Chém cổ chúng nó ngay đi, còn chờ đợi ǵ nữa!" Có báo lại viết: "Có lẽ là bên Ba Lê cứu tội chết cho mấy chục cái đầu ấy chăng!". Các đại biểu Pháp ngoài Bắc cũng như trong Nam cùng họp nhau gửi điện tín về Ba Lê, yêu cầu chính phủ Pháp cho phép Toàn quyền Đông Dương được rộng quyền xử tử những việc rối ren trong xứ, nghĩa là Toàn quyền Đông Dương được y án chém, khỏi phải gửi hồ sơ qua Pháp nữa.

Ngày 31 tháng 3 năm 1930, tin từ Ba Lê gửi qua: "Thuộc địa Thương Thư trả lời: luật lệ nhà nước đã định ra như vậy, chỉ có Tổng Thống mới có quyền ân xá cho phạm nhân, chớ không có thể làm trái luật nước đi, mà để cho chính phủ Đông Dương có quyền ấy được.

Ngày tháng trôi qua, đến đầu tháng 6, một công điện từ Ba Lê đánh sang Hà Nội, báo tin Tổng Thống Doumergue đổi 27 án tử hình ra án khổ sai chung thân, còn lại 13 người bị y án. Nhưng tin ấy Chính quyền thực dân hết sức giữ bí mật. Mãi đến chiều ngày 16 tháng 6, một đội lính lê dương cùng một số nhà chức trách tiến vào giẫy sà lim án tử hình, kêu tên Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của ông xích tay 2 người làm một đưa ra đi. Từ trong sà lim án chém bước ra trại giam ngoài, Nguyễn Thái Học hô to: "Chúng ta đi trả nợ nước đây!" Các anh em còn sống cứ công nào việc ấy nhé! Cờ độc lập phải nhuộm bằng máu. Hoa tự do phải tưới bằng máu! Tổ quốc còn cần đế sự hy sinh của con dân nhiều nữa! nhiều nữa! Rồi thế nào cách mạng cũng thành công! Thôi kính chào các anh em trở lại. "Tiếng chào anh em ở lại" ḥa với tiếng la ó cảm động của phạm nhân trong khắp các trại giam, trở nên vang động khắp khu hỏa lò. Để giữ kín đến phút cuối cùng, Nguyễn Thái Học cùng 12 đồng chí của ông được đưa đi trong một buổi hoàng hôn ảm đạm từ Hà Nội đi Yên Bái bằng một chuyến xe riêng.

Một đoàn xe hơi thuộc loại fourgonnette đen bọc lưới sắt từ trong cổng ngục thất hỏa lò tiến ra, ngoài số 13 chiến sĩ, số lính võ trang súng ống rất đông cùng ngồi trong xe canh chừng rất nghiêm ngặt. Đoàn xe lướt nhanh qua đường Jean Soler rẽ ra đại lộ Carreau chạy thẳng ra đường Hàng Lọng, rồi rẽ tay trái thẳng tới ga Hàng Cỏ. Hai bên dọc đường đều có rất đông lính canh gác rất cẩn mật. Khi đoàn xe vừa vượt qua đường Jean Soler, th́ì có một số khoảng hơn 20 người, trước đó đứng tản mác mỗi người một nơi trước khu vườn trồng rau bên cạnh sở căn cước cũ, vội xô cả ra lề đường, th́ì trên xe phát ra những tiếng hô to: "VIỆT NAM MUÔN NĂM" "VIỆT NAM QUỐC DÂN ĐẢNG MUÔN NĂM" vang động rền trời, đồng thời một mảnh giấy cũng được vứt từ trên xe thứ 3 xuống mặt đường.

Một số người đứng trên lề đường cũng vừa hô to những khẩu hiệu như trên, rồi ùa nhau ra đường để nhặt mảnh giấy ấy, nhưng đồng thời chiếc xe hơi cũng ngừng ngay lại, một số lính đứng trên xe vội nhảy xuống đường giành giựt mảnh giấy ấy. Số lính đứng gác hai bên lề đường cũng ùa nhau đuổi theo bắt đánh những người đă nhặt được mảnh giấy ấy. Kết quả bọn lính trên xe hơi đă cướp lại được, rồi vội nhảy lên xe hơi, rồ máy chạy nhanh. Người ta còn vẳng nghe tiếng kêu của những phạm nhân ở trên xe hơi, có lẽ anh em đă bị lính đánh đập tàn nhẫn. Trong chuyến xe lửa riêng này có mấy viên thanh tra mật thám, Pháp và một số mật thám ta, viên giám binh người Pháp và một đội lính khố xanh đi kèm. Ngoài ra còn có hai ông cố đạo: Méchet và Dronet. Trong chặng đường trường dài 4 tiếng đồng hồ, tất cả đều chuyện trò vui vẻ. Phó Đức Chính nói: "Chúng ta đến ga Yên Bái, chắc chắn sẽ được các đồng chí Lương, Tiệp, Thuyết, Hoằng ra đón rước nồng hậu". Nguyễn Thái Học đấu khẩu với Cố Dronet: "Chúng tôi chỉ là những kẻ chiến bại, chứ đâu phải là kẻ có tội", "Chúng tôi có phạm tội gì đâu! mà phải ăn năn thú tội!" Rồi nhà cách mạng họ Nguyễn ngâm mấy câu thơ Pháp: "Mourir pour sa patrie, C'est le sort le plus beau, Le plus digne d'envie,... (đã dịch ở trên). Cái máy chém cũng được đưa lên một cách lén lút như vậy. Trong thành phố Yên Bái không ai ngờ có chuyện đó. Pháp trường là một khu đất trống, giống như bãi đá banh, xung quanh có mấy giẫy nhà gạch một tầng mới cất, đó là trại binh khố xanh và nhà tiếp đón khách vãng lai của chính quyền. Bên cạnh máy chém, thực dân cho để thêm 15 chiếc ḥòm gỗ (quan tài). Họ phải đề phòng như vậy, 18 phút cuối cùng e có sự thay đổi bất thần chăng? Xung quanh pháp trường có 400 lính được phái đến vây kín khiến việc mang bom của cô Giang dự định phá pháp trường không hoạt động gì được. Công chúng người dân Việt ta không lấy gì làm đông đảo và hoàn toàn im lặng đau xót! 5 giờ kém 5 phút, toán người đầu tiên từ nhà giam tiến đến pháp trường: 4 bộ binh mang súng có lưỡi lê, 2 bộ binh tay không để đề phòng sự té xỉu của phạm nhân trong khoảng đường ngắn đó, nhưng không có một phạm nhân nào té xỉu, dẫn đầu là viên công xứ De Bottini.

Cả bọn tiến đến gần máy chém, đao phủ thủ là cai Công dắt BÙI TỬ TOÀN 37 tuổi, nông dân, sinh quán tại làng Xuân Lũng, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, đẩy vào tấm ván vừa bằng một người bắc nối vào lỗ máy chém. BÙI TỬ TOÀN mới hô được tiếng "VIỆT NAM" liền bị lính lê dương bịt miệng lại, rồi đao phu thủ liền giật lưỡi dao phật xuống. Người thứ hai tiến lên máy chém là: BÙI VĂN CHUẨN, 35 tuổi, thuộc Binh đoàn Yên Bái, Bùi Văn Chuẩn mới hô to được tiếng "VIỆT NAM", thì cũng bị lính lê dương bịt miệng lại, và Cai Công cũng giật lưỡi dao ngay. Người thứ ba là: NGUYỄN AN, 31 tuổi , thuộc Binh đoàn Yên Bái, Nguyễn An cũng hô to được tiếng "VIỆT NAM" rồi bị chém. Người thứ 4 là: HÀ VĂN LẠO, 25 tuổi thợ hồ, cũng chỉ hô to được tiếng "VIỆT NAM " rồi bị chém. Người thứ 5 là: ĐÀO VĂN NHÍT thuộc binh đoàn Yên Bái, Đào Văn Nhít mới hô to được tiếng "VIỆT". Người thứ 6 là: NGÔ VĂN NHU thuộc Binh đoàn Yên Bái. Người thứ 7 là: NGUYỄN ĐỨC THỊNH, thuộc Binh đoàn Yên Bái, Nguyễn Đức Thịnh cũng chỉ hô to được tiếng "VIỆT NAM". Người thứ 8 là: NGUYỄN VĂN TIỀM thuộc Binh đoàn Yên Bái, Nguyễn Văn Tiềm cũng chỉ hô to được tiếng "VIỆT". Người thứ 9 là " ĐỖ VĂN XỨ, thuộc Binh đoàn Yên Bái, cũng chỉ hô to được tiếng "VIỆT NAM". Người thứ 10 là: BÙI VĂN CỬU, thuộc Binh đoàn Yên Bái, cũng chỉ hô to được tiếng "VIỆT". Người thứ 11 là: NGUYỄN NHƯ LIÊM tức Ngọc Tỉnh, 20 tuổi học sinh, quán làng Cao Mại, phủ Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, cũng chỉ hô to được tiếng "VIỆT NAM". Đến người thứ 12 là: PHÓ ĐỨC CHÍNH, nhà cách mạng họ Phó đòi thực dân cho nằm ngửa để xem lưỡi dao rớt xuống như thế nào? Tiếp đến: NGUYỄN THÁI HỌC, được thực dân dẫn từ nhà giam ra lần cuối cùng, lần thứ 13. Người anh hùng dân tộc ấy với bộ râu quai nón, mỉm cười, đưa cặp mắt sáng quắc nhìn bốn phía, nghiêng mình chào đồng bào một lần cuối cùng hô to: "VIỆT NAM MUÔN.. thì Công sứ De Bottine liền vẫy tay lần thứ 13, đầu Nguyễn Thái Học rơi lúc đó vào hồi đúng 5 giờ 35 phút sáng ngày 17 tháng 6 năm 1930 tức ngày 21 tháng 5 Canh Ngọ .Để đề phòng và trả thù xác chết, sau khi hành quyết xong, chính quyền thực dân cho đưa thi hài 13 vị liệt sĩ lên chôn chung vào một huyệt ở dưới chân đồi cao, bên cạnh là đền thờ Trần Quán, cách ga xa lửa Yên Bái độ một cây số. Phái lính đến canh gác suốt ngày đêm, cho măi đến cuối năm 1930 mới bãi lệnh. Sau ngày VNQDĐ chiếm đóng tỉnh Yên Bái vào cuối tháng 10 năm 1945, Tỉnh Đảng bộ VNQDĐ đă tu bổ lại phần mộ 17 vị liệt sĩ Yên Bái và dựng đài kỷ niệm.

Ngày nay lăng mộ của Nguyễn Thái Học và các đồng chí bị xử chém được nhiều người đến thăm đến

 

 

Ngày 07/02/2010
Ths.Bs.Huỳnh Hồng Quang
(Tổng hợp)
 

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích