TRANG CHỦ | Thứ 6, ngày 22/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Các tiến bộ gần đây về lĩnh vực hóa học dòng chảy (flow chemistry) và quang hóa học (photochemistry) đã cho thấy một phương pháp hiệu quả để tổng hợp nên artemisinin từ nhiều quá trình sinh tổng hợp tiền chất artemisinic acid, điều này sẽ giảm đi dihydroartemisinic acid trước khi tái hoạt với các singlet oxygen. Tổng hợp artemisinin theo công nghệ di truyềnVào năm 2006, một nhóm nghiên cứu từ UC Berkeley báo cáo rằng họ đã tinh chế nấm men Saccharomyces cerevisiae để sinh ra một lượng nhỏ tiền chất artemisinic acid. Các artemisinic acid được tổng hợp này có thể chuyển ra, tinh khiết và chuyển hóa thànhART với giá thành chỉ khoảng 0.25 USD một liều. Trong nổ lực sinh tổng hợp này, một con đường chuyển hóa mevalonate cải tiến được áp dụng và các tế bào nấm men được thiết kế theo công nghệ di truyền để trình diện enzyme amorphadiene synthase và một cytochrome P450 monooxygenase (CYP71AV1), cả hai từ cây thanh hao hoa vàng A. annua. Một chu trình oxy hóa gồm ba bước của amorpha-4,11-diene cho ra chất artemisinic acid. Công ty Amyris đã được sự hỗ trợ một phần kinh phí từ Viện oneWorld Health để hỗ trợ oneWorld Health phát triển công nghệ này với tên gọi dự án là Artemisinin Project dưới sự giúp đỡ kinh phí từ Quỹ Bill & Melinda Gates Foundation và nhằm mục đích tạo ra một nguồn ART giá cả phải chăng, chất lượng cao và không lệ thuộc vào thời vụ hay mùa trồng cây để cung cấp thêm cho nguồn ART từ cây trồng và dần dần cho ra nhiều ACTs hơn. Phương pháp Theo báo cáo về sốt rét thế giới từ WHO 2010 cho biết ART bán tổng hợp từ nấm men sẽ không trở thành sản phẩm thương mại cho đến năm 2012 mà ở thời điểm này nó chỉ bổ sung thêm vào nguồn ART tinh chế từ thực vật mà thôi. Một thông tin cập nhật từ công ty Amyris cho biết các thuốc dựa trên nền ART sẽ có sẵn trên thị trường vào năm 2013. Sanofi-aventis sẽ chịu trách nhiệm sản xuất và đưa ra chi phí giá cả hợp lý, mục tiêu là cung cấp ART cho điều trị ACTs ở mức giá 50 cents/ liều. Năm 2010, một nhóm nghiên cứu từ đại học Wageningen báo cáo rằng họ đã tổng hợp được tiền chất của ART từ cây thuốc lá Nicotiana benthamiana và trong tương lai cũng óc thể sản xuất được chất artemisinic acid. Một số hoạt động trong kế hoạch ngăn chặn sốt rét kháng thuốc artemisinin Các nổ lực chính để ngăn chặn kháng thuốc artemisinin tập trung tại vùng Mê Kông, hy vọng sẽ ngăn ngừa sự lan rộng sang các vùng khác. Các hệ thống giám sát đang được thiết lập để mô tả sự lan rộng của KST đáp ứng chậm. Sự ứng dụng và lồng ghép của tất cả các phương pháp là cần thiết để đánh giá hoàn chỉnh. TCYTTG đã đề xuất Kế hoạch GPARC (WHO, 2011) trong đó các chiến lược giám sát chuẩn sẽ được đưa vào ứng dụng trong các vùng khác nhau – nơi mà các các chủng KST giống nhau có thể xuất hiện và lan rộng nhanh chóng. Cho đến các kết quả về chỉ điểm phân tử phát triển, thì một khung giám sát kháng thuốc đối với các kiểu hình làm sạch chậm KST trong các vùng khác ngoài khu vực sông Mê Kông sẽ quyết định. Hệ thống giám sát mang tính thực hành gồm có các hồ sơ về nhân chủng học và vùng lan truyền khác nhau đại diện cần thiết để thiết lập khung thống nhất, dựa trên mạng lưới của các nhóm chuyên trách mà có thể xác định nền tảng của các KST nhạy với thuốc ART trong việc làm sạch KST và theo dõi, báo cáo thường quy bất kỳ thay đổi nào. Các dấu hiệu cảnh báo sớm về chậm cắt KST thông báo và có chương trình hành động bởi nhóm chuyên trrách quốc gia và liên vùng, cập nhật dữ liệu liên tục và đúng thời gian, trình bày số liệu theo cách thức phù hợp nhu cầu để đưa ra quyết định đối phó. Một số nội dung kế hoạch ngăn chặn kháng artemisinin Trước đây, cộng đồng khoa học đã truy tìm được dấu vết kháng của CQ, SP, MEFnhưng chưa có đủ khả năng truy tìm và theo vết kháng ART và các thuốc đi kèm trong phối hợp ACTs của chúng. Các thiết kế nghiên cứu sắp đến cần kế hoạch sáng tạo và thực hiện trong các vùng khác nhau mà ở đó ít thông tin sẵn có. Chia sẻ các dữ liệu có sẵn sẽ cho biết về xu hướng tinh vi trong thay đổi xu hướng về mặt kiểu hình và kiểu gen có thể. Các mục tiêu này dựa trên kho dữ liệu của WWARN để làm sáng tỏ kháng thuốc ART. Các công việc tiếp theo là ứng dụng các thủ thuật công nghệ thông tin và lĩnh vực nghiên cứu bản đồ để xác định mô típ lan truyền SR (Elyazar và cs., 2011; Gething và cs., 2011), mật độ quần thể dân cư và tình trạng dân di biến động (Tatem và Smith, 2010). Từ đó xác định chi tiết một bản đồ mô tả về kháng thuốc có quy mô, tỷ lệ mắc SR, chất lượng thuốc và tiếp cận thuốc SR. Lồng ghép các dữ liệu đã được thu thập, phát triển mô hình tiên đoán kháng và mô hình ngăn chặn, phòng chống kháng thích hợp (Smith và cs., 2010). sẽ loại trừ KSTSR gây chết người ở lục địa châu Phi này và thực tế, việc sử dụng ACTs và các màn tẩm hóa chất giúp cứu sống đến hơn 70.000 mạng sống tại châu Phi từ 2000 - 2010 rồi kháng thuốc ACTs đã được phát hiện tại khu vực biên giới Thái Lan – Campuchia, chỉ ra cho thấy thuốc mất đi hiệu lực tiềm năng trong vùng sử dụng và lo sợ có thể lan rộng trên quy mô toàn cầu sẽ phát triển, nếu kháng lan rộng, không còn thuốc mới nào đưa ra sử dụng thay thế ACTs. Trong một nổ lực ngăn chặn tỷ lệ sốt rét từ sự tăng vọt trở lại. Kế hoạch GPARC được phát triển bởi Chương trình sốt rét toàn cầu WHO với sự hỗ trợ của Quỹ Bill và Melinda Gates Foundation và đối tác Roll Back Malaria. Kế hoạch bao gồm 5 bước sau để ngăn chặn và phòng chống kháng ART: 1.Dừng lan rộng KSTSR kháng thuốc: Một kế hoạch và kinh phí đầy đủ PCSR sẽ tập trung vào ngăn chặn và phòng ngừa kháng ART. Ngân sách bổ sung sẽ cần đến để làm dừng sự lan rộng KSTSR kháng tại các nơi mà có bằng chứng về kháng ART. Kế hoạch toàn cầu ước tính sẽ chi thêm 10-20 USD/ người trong vùng có kháng đã xác định dọc theo biên giới Campuchia – Thái Lan và 8-10 USD tại các vị trí có nguy cơ trong tiểu vùng sông Mê Kông; 2.Tăng cường giám sát kháng thuốc ART: TCYTTG ước tính năm 2010 chỉ có 31 trong 75 quốc gia nên tiến hành nghiên cứu thử nghiệm đánh giá hiệu lực thường quy về thuốc ACTs, nhưng có một nguy cơ kháng ART đang nổi lên thầm lặng trong các vùng hiện đang chưa có giám sát; 3.Nâng cao tiếp cận xét nghiệm chẩn đoán SR và sử dụng liệu pháp ACTs. Các liệu pháp này thường được dùng để điều trị bệnh có sốt khác sốt rét thì điều này có thể làm tăng thêm SR kháng thuốc. Để làm giảm số bệnh nhân mà những người này không cần thiết phải dùng thuốc SR, TCYTTG khuyên nên xét nghiệm chẩn đoán tất cả các ca nghi ngờ SR trước khi điều trị; 4.Đầu tư vào nghiên cứu liên quan đến kháng ART: Đây là một nhu cầu cấp thiết để phát triển các kỹ thuật phát hiện KSTSR kháng thuốc nhanh hơn và phát triển cácthuốc mới để thay thế liệu pháp ACTs; 5.Thúc đẩy hành động và vận động nguồn lực: Thành công của kế hoạch toàn cầu sẽ lệ thuộc vào sự phối hợp tốt và kinh phí đủ từ các nhà tài trợ trên thế giới. Một số biện pháp nhằm làm hạn chế xuất hiện kháng và quản lý kháng 1. Chẩn đoán chính xác và kịp thời ca bệnh sốt rét -Sử dụng các xét nghiệm về KSTSR nhờ vào chuẩn vàng giêm sa (kính hiển vi quang học) và test chẩn đoán nhanh (RDTs) để phát hiện và chẩn đoán sốt rét; -Giới hạn số ca sốt rét lâm sàng (thông qua chẩn đoán giêm sa và test nhanh) tại tất cả các tuyến y tế; -Để làm tăng lên số ca chẩn đoán dương tính, tất cả các trạm y tế xã nên lấy ít nhất 3 lam máu để xét nghiệm giêm để phát hiện sốt rét trước khi kết luận âm tính; -Tăng việc sử dụng các test chẩn đoán sốt rét tại hệ thống y tế tư nhân và khích lệ bệnh nhân tiếp cận hệ thống y tế đã đạt hiệu quả trong khâu chẩn đoán và điều trị toàn diện; -Chẩn đoán và điều trị dựa vào cộng đồng với việc nâng cao chẩn đoán và điều trị, mở rộng dùng RDTs và xét nghiệm KHV có thể làm giảm đáng kể việc sử dụng sai và lạm dụng thuốc ACTs trên những vùng sốt rét; -Trong chẩn đoán sốt rét tại các la bô ở bệnh viện, xác định loài và đếm mật độ KST là cần thiết nhằm phát hiện sự tồn tại KST dương tính ngày D3, theo dõi diễn tiến điều trị và sự sạch KSTSR P. falciparum. 2. Nâng cao tiếp cận điều trị -Đảm bảo tất cả các trường hợp SR do P. falciparum được xác định nhận điều trị phác đồ ACTs theo hướng dẫn của Bộ Y tế 2009; -Đảm bảo quản lý thích hợp và điều trị các ca SR vì việc sử dụng bừa bãi thuốc phối hợp ACTs mà không có sự xác định ca bệnh, đặc biệt tại các vùng lan truyền cao cũng sẽ đẩy nhanh tiến trình kháng thuốc đơn phần trong ACTs; -Mặc dù có sự thay đổi về tính nhạy với artemisinins, song hiệu lực lâm sàng và ký sinh trùng của ACTs vẫn chưa có suy giảm tại Việt -Đảm bảo tất cả các ca bệnh được khám lách (thậm chí có thể siêu âm bụng tổng quát). Vì tình trạng lách sẽ là một yếu tố nhiễu gây đánh giá sai lệch cho hiệu quả /hiệu lực điều trị của ACTs và artemisinine; -Liên quan đến cân nặng bệnh nhân, chức năng sống, tính dung nạp và an toàn thuốc trước, trong và sau khi dùng thuốc ACTs tại y tế tư nhân bởi các y, bác sĩ điều dưỡng; -Trước, trong và sau khi dùng ACTs tại bệnh viện, cần theo dõi về mặt KSTSR bằng KHV mỗi ngày để phát hiện các dấu hiệu tiềm tàng sinh kháng; -Cân nhắc sử dụng đồng thời các thuốc artemisinne và ACTs với các chế phẩm multivitamin (chứa sắt và vitamin C, A và E) vì tương tác giảm hiệu lực; -Giám sát hiệu lực các thuốc ACTs tại bệnh viện là cần thiết trong hầu hết các trường hợp nghi ngờ kháng, đặc biệt tại vùng SRLH; -Chương trình QGPCSR nên tổng kết và xem xét chính sách thuốc sốt rét và cung cấp ACTs cho tất cả tuyến y tế như một khuyến cáo của WHO tùy thuộc độ nhạy của thuốc theo từng giai đoạn. 3. Tập huấn và đào tạo lại chính sách điều trị thuốc sốt rét mới -Với chính sách thuốc sốt rét của Bộ Y tế năm 2009, Chương trình QGPCSR Việt Nam hỗ trợ kinh phí và tập huấn đào tạo cho tất cả các tuyến y tế, đặc biệt nhấn mạnh đến các bác sĩ tại các bệnh viện (từ tuyến trung ương đến huyện, xã) giúp các y, bác sĩ theo dõi ca bệnh thích hợp; -Tại tuyến xã và thôn bản, vì hạn chế về kiến thức và kỹ năng, Chương trình QGPCSR nên áp dụng các phương pháp sẵn có và chủ động thời gian để họ tiếp cận cách theo dõi bệnh nhân ngày một tốt hơn; -Trong suốt kháo tập huấn, giảng viên cần chỉ ra các điểm liên quan đến giám sát ca bệnh chặt chẽ, phát hiện sớm các dấu cảnh báo kháng cũng như thái độ xử trí ca bệnh với các phác đồ thuốc thay thế. Các nổ lực phát triển các vaccine hiệu quả phòng bệnh SR vẫn chưa thành công và do vậy các liệu pháp thuốc vẫn là chiến lược phòng chống hiệu quả.P. falciparum, loại KSTSR đã gây nên 90% số ca SR trên phạm vi toàn cầu, đang trở nên ngày càng kháng với hầu hết các thuốc sốt rét trên sử dụng lâm sàng. Tình trạng nguy hiểm này sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn qua các báo cáo tại Đông Nam Á, khi P. falciparum đã xuất hiện kháng với artemisinin – vũ khí tiềm năng hiện nay trong điều trị sốt rét. DHA+PPQ là 1 trong 5 phối hợp ACTs đặc hiệu được WHO khuyến cáo gồm có arthemether + lumafantrine, artesunate + amodiaquine, artesunate+ mefloquine, DHA +PPQ, artesunate + sulfadoxine/pyrimethamine. Nó cũng đã được đệ trình lên cơ quan thuốc châu Âu EMA) để được chấp thuận vào năm 2009. Điều đáng chú ý là Hướng dẫn điều trị sốt rét do WHO ấn bản lần 2 vào năm 2010 đã đưa DHA/PPQ vào danh mục như một lựa chọn ACTs trong lựa chọn ưu tiên điều trị SR chưa biến chứng do P. falciparum trên phạm vi toàn cầu. Hiệu quả này có được do thời gian bán hủy dài của thành phần đi kèm piperaquine và có tác động lớn lên việc cải thiện chăm sóc BNSR trong các vùng sốt rét lưu hành và các kết quả nghiên cứu hiệu lực rất tốt về thuốc DHA+PPQ ghi nhận trên nhiều vùng khác nhau đã được báo cáo trên y văn thế giới. Liệu pháp sốt rét hiện tại đồng thời với sự có mặt của hai hay nhiều thuốc tác động trên thể phân liệt mô không lệ thuộc vào nhau, điều này sẽ cải thiện hiệu lực điều trị và cũng trì hoãn sự phát triển kháng với các thành phần thuốc đơn lẻ trong hợp chất. Để chống lại sự phát triển hình thành kháng, WHO đã khuyến cáo loại trừ ngay phác đồ đơn trị liệu và chuyển sang phác đồ ACTs với các thành phần artemisinin và dẫn suất trong đó. Các thuốc ACTs chứa dẫn chất artemisinin đã làm giảm nhanh dung khối KSTSR, trong khi sự có mặt của thuốc thứ hai có cơ chế khác tác động làm giảm khả năng và tiềm năng các chủng kháng thuốc. WHO khích lệ sự phát triển các phiên bản thuốc phối hợp của ACTs kết hợp trong cùng một vỉ để tránh sử dụng lại dạng đơn trị liệu như trước đây. Sự phát hiện hiệu lực giảm chỉ là bước đầu tiên tiếp cận thông tin hữu ích cần đưa ra sớm quyết định. Điều này sẽ gợi ý chuyển dịch một tiếp cận gia tăng các số liệu hiệu quả về thuốc phạm vi toàn cầu và cần có những khuyến cáo sớm. Do đó, nghiên cứu này tổng hợp tỷ lệ dương tính KSTSR ngày D3 của P. falciparum sau khi hoàn tất liệu tình DHA+PPQ trong 3 ngày. Từ các số liệu hữu ích thu thập từ thực địa qua nghiên cứu in vivo và các dữ liệu tại bệnh viện sẽ cập nhật thêm nhiều yếu tố liên quan, đặc biệt là thời gian làm sạch KST khi dùng các phác đồ ACTs như hiện nay tại Việt Kháng thuốc sốt rét là một vấn đề y tế công cộng quan trọng, gây trở ngại lớn trong chiến lược PCSR tại nhiều quốc gia. Cùng với kết quả dữ liệu về hiêu lực thuốc và kháng thuốc phạm vi toàn cầu (Global report on antimalarial drug efficacy and drug resistance 2000 – 2010) do Chương trình sốt rét toàn cầu (WHO, 2010) ghi nhận, đặc biệt là tình trạng kháng thuốc nghiêm trọng do P. falciparum vớiartemisinin tại biên giới Campuchia-Thái Lan vào năm 2008. Vì mối đe dọa này, WHO đã cùng với đối tác Roll Back Malaria (RBM) phát triển một chương trình hành động ngăn chặn kháng GPARC (Global plan for artemisinin resistance containment, WHO, 2011). Trong tài liệu đó, nhu cầu giám sát hiệu lực thuốc là một trong 4 trụ cột để đối phó với mối đe dọa này. Các bằng chứng về kháng thuốc artemisinins đã được xác định và khẳng định tại biên giới Campuchia-Thái Lan. Các ổ khác cũng đã được xác định tại 4 quốc gia trong khu vực tiểu vùng sông Song song đó, tại một số tỉnh ở Việt Nam cho thấy qua thử nghiệm in vivo TES tại Gia Lai (2010) và Bình Phước (2009-2011) với artesunate đơn trị liệu và DHA+PPQ cho thấy > 10% số ca dương tính sau khi hoàn thành liệu pháp 3 ngày của ACTs tại thực địa, một số vùng SRLH khác tại khu vực miền Trung-Tây Nguyên cho thấy bằng chứng > 10% số ca có phát hiện KSTSR thể vô tính dương tính sau điều trị DHA+PPQ tại một số bệnh viện như trong nghiên cứu này. KSTSR vào ngày D3 dương tính là một dấu hiệu sớm nhất cảnh báo kháng thuốc artemisinins. Giờ đây, để thành công và làm thế nào ngăn chặn vấn đề thất bại điều trị này cũng như bảo vệ hiệu lực thuốc ACTs. Những gì cần làm giờ đây cần: (i)Loại trừ các KST dung nạp artemisinin nhờ vào phát hiện tất cả ca bệnh tại các vùng trọng điểm và đảm bảo điều trị hiệu quả cũng như làm sạch giao bào; (ii)Giảm áp lực thuốc để lựa chọn các KST kháng artemisinin (gồm có cấm bán thuốc artemisinine đơn trị liệu); (iii)Ngăn lan truyền KST dung nạp artemisinin nhờ vào các biện pháp phòng chống vector và biện pháp cá nhân; (iv)Hạn chế sự lan truyền dòng KSTSR dung nạp artemisinin thông qua các dân di biến động; (v)Hỗ trợ cho việc ngăn chặn / loại trừ KST kháng thuốc thông qua truyền thông thay đổi hành vi một cách quan trọng nhất, động viên và khích lệ cộng đồng; (vi)Thực hiện các nghiên cứu cơ bản và thường quy để lấp đầy khoảng trống kiến thức và đảm bảo rằng các chiến lược áp dụng là dựa trên bằng chứng và (vii)Cung cấp quản lý, giám sát và phối hợp hiệu quả để thiết lập chất lượng cao và nhanh cho các chiến lược.
|
|
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |