Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 22/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Web Sites & Commerce Hoạt động hợp tác
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Finance & Retail An toàn thực phẩm & hóa chất
An toàn vệ sinh thực phẩm
Thuốc & Hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 7 2 0 5 6
Số người đang truy cập
1 4 9
 An toàn thực phẩm & hóa chất Thuốc & Hóa chất
Cây thanh hao hoa vàng
Thuốc sốt rét có nguồn gốc thực vật

Thuốc sốt rét có nguồn gốc thực vật được sử dụng từ ngày xưa mãi cho đến nay để điều trị bệnh sốt rét tỏ ra có hiệu quả là thuốc quinin chiết xuất từ vỏ cây quinquina, artemisinin chiết xuất từ cây thanh hao hoa vàng và artesunat là dẫn chất bán tổng hợp của artemisinin.

Hiện nay những loại thuốc sốt rét tổng hợp đang có xu hướng ít được sử dụng trong điều trị bệnh sốt rét vì hiệu lực tác dụng trên các chủng loại ký sinh trùng gây bệnh không cao, đặc biệt là ký sinh trùng Plasmodium falciparum. Hơn nữa tính kháng thuốc của ký sinh trùng sốt rét với các loại thuốc tổng hợp ngày càng phát triển và gia tăng nên các nhà khoa học khuyến cáo sử dụng các loại thuốc có nguồn gốc thực vật kết hợp với những loại thuốc khác để tăng hiệu quả, không dùng riêng lẻ.

Quinin

Quinin là một alcaloid của vỏ cây quinquina, có tên khoa học là Cinchona sp. rubiacea. Trong chiết xuất để bào chế dược phẩm, quinin thường được sản xuất ở dưới các dạng muối như quinin sulfat, quinin disulfat, quinin chlorhydrat hay quinin hydrochlorid, quinin dichlorhydrat hay quinin dihydrochlorid, quinin ethylcarbonat, quinin tanat, quinin formiat, quinin carbonat với biệt dược là Euquinin, hỗn hợp của muối resorcin và dichlohydrat với biệt dược là Quininmax... Thuốc có tác dụng mạnh đối với các thể vô tính trong hồng cầu của ký sinh trùng sốt rét Plasmodium, nhất là Plasmodium falciparum gây sốt rét nặng và ác tính. Chúng cũng có tác dụng diệt thể giao bào chống lây lan của chủng loại ký sinh trùng sốt rét Plasmodium vivax và Plasmodium malariae. Thuốc được chỉ định sử dụng điều trị cho các thể bệnh sốt rét, đặc biệt là thể sốt rét ác tính do nhiễm chủng loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum hoặc ký sinh trùng sốt rét đã kháng lại với các loại thuốc sốt rét tổng hợp. Chống chỉ định sử dụng thuốc quinin trong các trường hợp mẫn cảm với thuốc, sốt rét có kèm tiểu huyết cầu tố, viêm dây thần kinh thị giác...

Theo các nhà khoa học, những báo cáo về trường hợp ký sinh trùng sốt rét kháng lại với thuốc qunin còn hiếm, chủ yếu những trường hợp điều trị thất bại thường do điều trị không đủ liều. Tuy nhiên trước đây khi nghiên cứu tại Thái Lan đã ghi nhận ký sinh trùng sốt rét kháng lại thuốc quinin với tỷ lệ 10% nhưng ở mức độ kháng nhẹ RI. Vào những năm 80, cũng có những thông báo tại Thái Lan khi tiến hành thử nghiệm trên bệnh nhân và trong phòng thí nghiệm ghi nhận ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum kháng lại thuốc quinin có hiện tượng tăng nhanh nên từ năm 1982 quốc gia này đã không sử dụng quinin đơn thuần trong điều trị. Tiếp theo đó, năm 1987 Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) thông báo ký sinh trùng sốt rét Plasmodiun falciparum có khả năng kháng thuốc quinin ở nhiều quốc gia tại khu vực Đông Nam Á, Nam Mỹ, châu Phi... Từ đây, vai trò của thuốc quinin được các nhà khoa học xem xét lại và khuyến cáo không nên sử dụng thuốc quinin đơn thuần mà phải kết hợp với một loại thuốc sốt rét khác để tăng hiệu lực,

 
Thuốc sốt rét quinin, artemisinin, artesunat có nguồn gốc từ thực vật (ảnh minh họa)

Artemisinin

Thuốc artemisinin có các biệt dược là Qinghaosu, Artenssen, Artes... Chúng được chiết xuất từ cây thanh hao hoa vàng có tên khoa học là Artemisia annua, đây là một hợp chất thuộc nhóm sesquiterpen lacton. Thuốc có tác dụng ít độc hơn các loại thuốc sốt rét tổng hợp, diệt được các chủng loại ký sinh trùng sốt rét kháng lại với các thuốc điều trị sốt rét thường dùng, có khả năng diệt thể vô tính trong hồng cầu của các chủng loại ký sinh trùng sốt rét ký sinh trong máu kể cả chủng loại ký sinh trùng Plasmodium falciparum đã kháng lại với các thuốc khác. Chú ý không sử dụng thuốc artemisinin cho phụ nữ mắc sốt rét đang có thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ

Artesunat

Thuốc artesunat có các biệt dược là Qinghaoshuzhi, Artevil, Arthaxan, Roteria... Đây là thuốc được sản xuất từ dẫn chất bán tổng hợp của artemisinin. Chúng có nhiều ưu điểm hơn thuốc artemisinin và được bào chế dưới dạng thuốc viên dùng để uống và thuốc lọ dùng để tiêm. Khi vào cơ thể, thuốc được dung nạp tốt nên có tác dụng cao hơn thuốc artemisinin. Thuốc artesunat có tác dụng hạ sốt, có hiệu lực diệt thể vô tính, thể hữu tính trong hồng cầu của các chủng loại ký sinh trùng sốt rét; đặc biệt đối với sốt rét ác tính do nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodiun falciparum cao hơn thuốc artemisinin. Chúng cũng có khả năng diệt sạch ký sinh trùng sốt rét ở trong máu nhanh hơn ngay cả khi bị nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum và Plasmodiun vivax; ngăn chặn được các trường hợp sốt rét ác tính và hạn chế tỷ lệ tử vong so với các loại thuốc điều trị khác. Chú ý không được sử dụng thuốc artesunat cho phụ nữ mắc sốt rét đang có thai trong 3 tháng đầu của thai kỳ. Thuốc artemisinin và dẫn chất của chúng là artesunat sản xuất từ năm 1972 được ứng dụng trong điều trị sốt rét do nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum kháng lại với thuốc chloroquin và đa kháng các loại thuốc khác ở Trung Quốc, Việt Nam và một số quốc gia ở khu vực Đông Nam Á. Thuốc có tác dụng diệt ký sinh trùng sốt rét và cắt cơn sốt trong vòng từ 30 đến 40 giờ. Mặc dù thuốc có tác dụng nhanh hơn các loại thuốc sốt rét khác nhưng tỷ lệ tái phát cao khoảng 40% khi dùng trong 3 ngày hoặc 5 ngày. Thời gian gần đây, các nhà khoa học ghi nhận mức độ nhạy cảm của ký sinh trùng sốt rét đối với thuốc artemisinin và dẫn chất là artesunat nếu dùng đơn thuần đã có sự thay đổi khi nghiên cứu trong phòng thí nghiệm; đồng thời cũng phát hiện ký sinh trùng sốt rét phát triển kháng thuốc khi thử nghiệm tạo kháng trên động vật thí nghiệm, ký sinh trùng sốt rét được tạo kháng với thuốc artemisinin đồng thời cũng có khả năng kháng luôn cả thuốc chloroquin và mefloquin. Tại nước ta, hiện tượng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc artesunat là dẫn chất của artemisinin khi sử dụng đơn thuần được phát hiện đầu tiên vào năm 2009 ở tỉnh Bình Phước với tỷ lệ kháng 14,6% và khả năng lan tỏa đến các địa phương khác. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo nếu nơi nào xác định ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc với tỷ lệ 10% thì phải ngừng loại thuốc đang sử dụng vì không có hiệu lực tốt trong điều trị.

Khuyến nghị

Như vậy thuốc sốt rét có nguồn gốc thực vật như quinin, artemisinin và dẫn chất là artesunat có nhiều ưu điểm trong điều trị bệnh sốt rét khi mới được phát hiện, sử dụng. Tuy nhiên nếu dùng thuốc riêng lẻ, đơn thuần và kéo dài thì ký sinh trùng sốt rét có khả năng kháng lại đối với thuốc. Trong hướng dẫn chẩn đoán, điều trị bệnh sốt rét được Bộ Y tế ban hành từ năm 2009 quy định các cơ sở y tế không được dùng đơn thuần các loại thuốc này để điều trị sốt rét mà phải phối hợp với những thuốc khác để tăng hiệu lực như: quinin phối hợp với doxycyclin hoặc quinin phối hợp với clindamycin trong thuốc điều trị thay thế (second line); dihydroartemisinin kết hợp với piperaquin, biệt được là Arterakine, CV artecan để điều trị sốt rét do nhiễm ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum trong thuốc điều trị ưu tiên (first line). Ngoài ra, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cũng khuyến cáo có thể sử dụng các phác đồ phối hợp khác như: artesunat phối hợp với mefloquin, artemether phối hợp với lumefantrin, artesunat phối hợp với amodiaquin để tăng hiệu lực điều trị và khắc phục được tình trạng ký sinh trùng sốt rét kháng thuốc.

Ngày 12/01/2015
TTƯT.BS. Nguyễn Võ Hinh  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích