Home TRANG CHỦ Thứ 3, ngày 26/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Finance & Retail Hoạt động hợp tác
Hợp tác trong nước
Hợp tác quốc tế
Dân tộc thiểu số
Dự án Quỹ toàn cầu PCSR
Quân dân y kết hợp
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 2 2 0 8 8 0
Số người đang truy cập
9
 Hoạt động hợp tác Hợp tác quốc tế
Những điểm chính trong báo cáo sốt rét toàn cầu năm 2014 của WHO

Báo cáo sốt rét thế giới năm 2014 được tổng hợp từ nguồn dữ liệu của 97 quốc gia có lưu hành bệnh sốt rét và từ nhiều nguồn khác cũng như cập nhật các phân tích được trình bày trong năm 2013, đánh giá xu hướng bệnh sốt rét trên toàn cầu và các khu vực, nhấn mạnh những tiến bộ đạt được để hướng đến các mục tiêu toàn cầu và mô tả những cơ hội và thách thức trong kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét.

Thách thức y tế cộng đồng do bệnh sốt rét gây ra

Lan truyền bệnh sốt rét xảy ra ở tất cả 6 khu vực của Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG). Theoước tính mới nhất, trên toàn thế giới có 3,2 tỷ người có nguy cơ bị nhiễm sốt rét và 1,2 tỷ người có nguy cơ cao. Trong năm 2013, có khoảng 198 triệu ca sốt rét xảy ra trên toàn cầu (số ca mắc dao động từ 124-283 triệu ca) là nguyên nhân gây ra 584.000 ca tử vong (số ca tử vong thay đổi từ 367.000-755.000). Gánh nặng bệnh sốt rét nhất tập trung chủ yếu ở khu vực châu Phi, nơi có khoảng 90% số ca tử vong sốt rét xảy ra và chủ yếu trẻ em dưới 5 tuổi, chiếm 78% tất cả các trường hợp tử vong.

Mở rộng ngân quỹ đầu tư cho sốt rét

Nguồn kinh phí tài trợ quốc tế và nguồn kinh phí trong nước tại các quốc gia lưu hành bệnh để kiểm soát và loại từ bệnh sốt rét tổng cộng 2,7 tỷ USD trong năm 2013. Mặc dù, nguồn kinh phí này đã gia tăng gấp 3 lần so với năm 2005 nhưng nó vẫn còn thấp so với nhu cầu thực tế là cần 5,1 tỷ USD để đạt được các mục tiêu toàn cầu kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét. Tổng số nguồn kinh phí tài trợ cho sốt rét sẽ chỉ có thể đáp ứng đủ nhu cầu cần thiết nếu các nhà tài trợ quốc tế và các quốc gia lưu hành ưu tiên đầu từ hơn nữa để kiểm soát bệnh sốt rét.

Nhìn chung, nguồn vốn tài trợ cho các quốc gia khu vực châu Phi chiếm 72% trong tổng số nguồn tài trợ trên toàn cầu. Trong giai đoạn từ năm 2005 đến 2013, giải ngân quốc tế để kiểm soát và loại trừ bệnh sốt rét trong khu vực này tăng với tốc độ hàng năm là 22%. Cũng trong thời gian này, tỷ lệ trung bình hàng năm các chính phủ đầu tư cho sốt rét tại khu vực này tăng 4%.

Trên toàn cầu, nguồn tài chính tại các quốc gia lưu hành để phòng chống sốt rét ước tính khoảng 527 triệu USD trong năm 2013. Kết quả này tương ứng 18% tổng số nguốn vốn giành cho bệnh sốt rét trong năm 2013. Các khu vực bên ngoài châu Phi, trong những năm gần đây tỷ lệ hàng năm nguồn vốn trong nước dành cho phòng chống sốt rét không tăng lên.

Những tiến bộ trong việc kiểm soát véc tơ

 

            Trong vòng 10 năm qua, mức độ bao phủ các biện pháp can thiệp để kiểm soát véc tơ thực tế đã gia tăng tại các quốc gia tiểu vùng Saharan châu Phi. Trong năm 2013, gầnmột nửa dân số có nguy cơ (49%, khoảng từ 44 – 54%) đã tiếp cận màn tẩm hóa chất diệt côn trùng (insecticide-treated mosquito net - ITN), so với 3% trong năm 2004. Ước tính có khoảng 44% (39–48%) dân số có nguy cơ ngủ trong màn tẩm hóa chất diệt côn trùng trong năm 2013 so với 2% trong năm 2004. Nhìn chung phụ nữ có thai và trẻ em thường ngủ trong màn tẩm hóa chất nhiều hơn so với các đối tượng khác. Màn tẩm hóa chất tồn lưu lâu (long-lasting insecticidal net - LLIN) phân phát trong cộng đồng trong năm 2014 là cao nhất từ trước đến nay. Tổng cộng có 214 triệu màn được dự án cung cấp cho các quốc gia cận Sahara châu Phi cho đến cuối năm 2014, nâng tổng số màn LLINs phân phát kể từ năm 2012 đến nay là 427 triệu màn.

Trên toàn cầu, có 123 triệu người được bảo vệ khỏi sốt rét thông qua sử dụng biện pháp phun hóa chất tồn lưu trong nhà. Kết quả này tương ứng 3,5% dân số có nguy cơ trên toàn cầu. Khu vực châu Phi, có 55 triệu người hoặc 7% dân số có nguy cơ được bảo vệ bằng biện pháp phun tồn lưu trong nhà. Kết quả này đã giảm từ 11% trong năm 2010; Sự suy giảm này là do thu hẹp chương trình phun tồn lưu trong nhà tại một số quốc gia.

 

Vùng cận Saharan châu Phi, tỷ lệ dân số bảo vệ ít nhất một biện pháp kiểm soát véc tơ đã gia tăng trong những năm gần đây và đạt đến 48% trong năm 2013 (khoảng từ 44-51%). Hiện có 38 quốc gia trên thế giới đã báo cáo sử dụng biện pháp kiểm soát bọ gậy như là phương pháp chính để kiểm soát véc tơ.

Kháng hóa chất diệt côn trùng ở các véc tơ sốt rét đã được báo cáo tại 49 quốc gia trong số 63 quốc gia trên thế giới báo cáo kể từ năm 2010. Trong số này, có 39 quốc gia đã báo cáo kháng với hai hoặc nhiều nhóm hóa chất diệt côn trùng.

            Kháng hóa chất được báo cáo phổ biến nhất là muỗi kháng với nhóm hợp chất pyrethroid vì nhóm hợp chất này thường xuyên được sử dụng trong kiểm soát véc tơ sốt rét.

TCYTTG đã thiết lập một hệ thống theo dõi kháng hóa chất diệt côn trùng trên toàn cầu và khuyến cáo các quốc gia lưu hành giám sát muỗi kháng hóa chất hàng năm. Trong năm 2013, có 82 quốc gia báo cáo thực hiện giám sát kháng hóa chất diệt côn trùng. Tuy nhiên, chỉ có 42 quốc gia báo cáo số liệu muỗi kháng hóa chất diệt côn trùng cho TCYTTG, điều này cho thấy nhiều nước không giám sát kháng hóa chất diệt côn trùng hàng năm.

Xu hướng quản lý các liệu pháp phòng ngừa bệnh

Tỷ lệ phụ nữ nhận điều trị phòng ngừa không liên tục trong giai đoạn thai kỳ (intermittent preventive treatment in pregnancy - IPTp) cho bệnh sốt rét đã tăng theo thời gian, mặc dù vẫn còn dưới mức mục tiêu của chương trình. IPTp đã được áp dụng tại 37 quốc gia và 57% phụ nữ có thai ở những nước này nhận được ít nhất một liều IPTp trong năm 2013. Tuy nhiên, chỉ có 9 quốc gia đã báo cáo cho TCYTTG, đề nghị ba liều hoặc liều nhiều hơn.

IPTp và trong những quốc gia này, chỉ có 17% phụ nữ mang thai nhận được ba liều hoặc nhiều hơn. Ở hầu hết các quốc gia, tỷ lệ phụ nữ có thai tham gia các dịch vụ chăm sóc thai kỳ cao hơn nhiều so với mức hiện tại của quản lý IPTp. Điều này cho thấy rằng có nhiều cơ hội bị bỏ qua để mở rộng khả năng tiếp cận các biện pháp can thiệp nhằmcứu lấy mạng sống của những người này.

            Tuân thủ và thực hiện các liệu pháp phòng người cho trẻ em dưới 5 tuổi và cho trẻ sơ sinh đã giảm chậm hơn so với dự kiến. Đến năm 2013, 6 trong số 16 quốc gia được TCYTTG đề nghị thông qua liệu pháp sử dụng thuốc chống sốt rét để phòng ngừa theo mùa cho trẻ em dưới 5 tuổi đã được thực hiện. Chỉ có một quốc gia chấp nhận điều trị phòng ngừa không liên tục cho trẻ sơ sinh nhưng vẫn chưa thực hiện việc điều trị

Mở rộng quy mô kiểm tra chẩn đoán

Tỷ lệ bệnh nhân nghi ngờ mắc sốt rét được xét nghiệm chẩn đoán đã tăng lên đáng kể từ năm 2010, khi TCYTTG khuyến cáo nên xét nghiệm tất cả các trường hợp nghi ngờ mắc bệnh sốt rét. Trong năm 2013, 62% số bệnh nhân nghi ngờ sốt rét tại các cơ sở y tế công cộng ở khu vực châu Phi được xét nghiệm chẩn đoán, so với 40% trong năm 2010.

Tổng cộng số lượng test chẩn đoán nhanh (rapid diagnostic tests - RDTs) cung cấp ở các nước có lưu hành bệnh sốt rét đã gia tăng từ số lượng nhỏ hơn 200.000 RDTs trong năm 2005 lên đến hơn 160 triệu RDTs trong năm 2013. Trong số đó có 83% được phân phát đến các quốc gia ở khu vực châu Phi. Chất lượng test chẩn đoán nhanh RDTs đã được cải thiện đáng kể kể từ khi bắt đầu chương trình thử nghiệm sản phẩm RDT trong năm 2008. Hàng loạt thử nghiệm sản phẩm mới nhất gần như tất cả các thử nghiệm đều đạt tiêu chuẩn của TCYTTG về việc phát hiện các mức độ ký sinh trùng thường thấy ở các vùng lưu hàng bệnh.

Trong năm 2013, số bệnh nhân được xét nghiệm bằng kinh hiển vi vẫn không thay đổi so với năm trước là 193 triệu người. Tổng số bệnh nhân được xét nghiệm lam máu trên kinh hiển vi trên toàn cầu chiếm ưu thế là ở Ấn Độ với tổng số lam được xét nghiệm là hơn 120 triệu lam trong năm 2013.

Trong năm 2013, lần đầu tiên, tổng số các xét nghiệm chẩn đoán được cung cấp cho khu vực châu Phi ở lĩnh vực y tế công cộng vượt quá số lượng điều trị phối hợp dựa vào artemisinin (Artemisinin-based combination therapies - ACTs) được phân phối. Đây là một dấu hiệu đáng khích lệ và có ít hơn một nửa số bệnh nhân được kiểm tra sẽ yêu cầu điều trị, cuối cùng tỷ lệ xét nghiệm chẩn đoán đối với ACTs đạt 2-1.

Mở rộng khả năng tiếp cận điều trị sốt rét

Đến cuối năm 2013, thuốc phối hợp có artemisinin hoặc dẫn suất (ACTs) lần đầu tiên đã được chấp nhận như là chính sách quốc gia tại 79 trong số 88 quốc gia nơi mà ký sinh trùng sốt rét Plasmodium (P.) falciparum lưu hành. Chloroquine đang được sử dụng ở 9 quốc gia Trung Mỹ và Caribbean nơi mà thuốc vẫn còn hiệu lực cao đối với ký sinh trùng sốt rét. Số lượng liệu trình ACTs mua từ các nhà sản xuất cho cả khu vực tư nhân và công đã gia tăng từ 11 triệu liều trong năm 2005 lên 392 triệu liều trong năm 2013. Sự gia tăng này phần lớn do khu vực công mua thuốc điều trị. Các cơ sở y tế cộng đồng có đủ lượng ACTs trong năm 2013 để điều trị cho hơn 70% bệnh nhân sốt rét. Tuy nhiên, ước tính tỷ lệ trẻ em mắc sốt rét được điều trị ACTs ước tính khoảng 9-29%. Nguyên nhân tỷ lệ trẻ em được điều trị ACTs thấp là do một tỷ lệ lớn bệnh nhân là trẻ em không tìm kiếm sự chăm sóc và không phải tất cả những đứa trẻ này tìm kiếm sự chăm sóc nhận điều trị bằng thuốc chống sốt rét.

 

Kháng thuốc sốt rét

Ký sinh trùng sốt rét P. falciparum kháng với artemisinin đã được phát hiện tại 5 quốc gia thuộc tiểu vùng sông Mê Kông gồm Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Ở nhiều khu vực dọc biên giới Campuchia-Thái Lan, P. falciparum đã trở nên kháng với hầu hết các loại thuốc sốt rét có sẵn.

Số quốc gia cho phép điều trị đơn trị liệu dựa vào artemisinin bằng đường uống đã giảm nhanh chóng. Tính đến tháng 11 năm 2014, chỉ có 8 quốc gia còn cho phép điều trị bệnh nhân sốt rét đơn trị liệu bằng đường miệng. Tuy nhiên, 24 công ty dược phẩm, hầu hết ở Ấn Độ, tiếp tục sử dụng đơn trị liệu bằng đường uống. Các nghiên cứu hiệu quả điều trị vẫn là tiêu chuẩn vàng cho chính sách hướng dẫn thuốc, và cần được tiến thành 2 năm 1 lần. Các nghiên cứu điều trị thuốc sốt rét thế hệ thứ nhất hoặc thứ hai được hoàn thành ở 72% quốc gia nơi mà nghiên cứu hiệu quả P. falciparum khả thi.

Những lỗ hổng trong độ bao phủ các biện pháp can thiệp

Mặc dù gia tăng ấn tượng độ bao phủ can thiệp, ước tính năm 2013 có 278 triệu trong số 840 triệu người có nguy cơ sốt rét ở cận sahara châu Phi sống trong những hô gia đình không có thậm chí một biện pháp can thiệp ITNs, 15 triệu trong số 35 triệu phụ nữ mang thai không nhận thậm chí liều đơn IPTp, và giữa 56 và 69 triệu trẻ em sốt rét không được điều trị ACTs. Nghèo đói và mức độ giáo dục thấp là những yếu tố quyết định quan trọng trong việc tiếp cận các dịch vụ thiết yếu này. Ngoài ra có thể thực hiện đảm bảo tất cả nguy cơ nhận các biện pháp phòng ngừa, xét nghiệm chẩn đoán và điều trị thích hợp.

Thay đổi tỷ lệ mắc và tử vong do sốt rét

Báo cáo số ca mắc sốt rét

Trong số 106 quốc gia đang xảy ra lan truyền sốt rét trong năm 2000, thì dữ liệu đã báo cáo tại 66 quốc gia được tìm thấy hoàn toàn đẩy đủ và chắc chắn đáng tin cậy đánh giá những xu hướng bệnh trong giai đoạn 2000 – 2013. Dựa vào đánh giá xu hướng trong báo cáo ca bệnh sốt rét, tổng cộng 64 quốc gia đang trên đà đạt được Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ (Millennium Development Goal target) về đổi chiều tỷ lệ mắc sốt rét. Trong đó có 55 quốc gia đang hướng đến các mục tiêu Đại hội đồng Y tế thế giới và Đẩy lùi sốt rét (Roll Back Malaria and World Health Assembly targets) giảm tỷ lệ mắc xuống 75% vào năm 2015.
 

Trong năm 2013, lần đầu tiên có 2 quốc gia trên thế giới đã báo cáo không có ca bệnh xảy ra tại chỗ (Azerbaijan and Sri Lanka) và 11 quốc gia đã thành công trong việc duy trì không có ca bệnh (Argentina, Armenia, Egypt, Georgia, Iraq, Kyrgyzstan, Morocco, Oman, Paraguay, Turkmenistan và Uzbekistan). Có 4 quốc gia khác đã báo cáo ít hơn 10 ca bệnh tại địa phương hàng năm (Algeria, Cabo Verde, Costa Rica and El Salvador).

Tổng số có 55 quốc gia ghi nhận số ca mắc giảm hơn 78% với khoảng 13 triệu ca (6%) trong tổng số ca ước tính là 227 triệu ca trong năm 2000. Chỉ có 5 quốc gia với hơn 1 triệu ca ước tính trong năm 2000 (Afghanistan, Bangladesh, Brazil, CambodiaPapua New Guinea) có kế hoạch giảm 75% hoặc hơn tỷ lệ mắc sốt rét. Điều này là do có nhiều tiến bộ đạt được nhanh hơn ở các quốc gia có số ca mắc thấp hơn.

Nhiễm sốt rét

Một phân tích dữ liệu mới phát hiện ra rằng tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét bao gồm cả nhiễm sốt rét có triệu chứng và không có triệu chứng đã giảm đáng kể ở toàn bộ khu vực cận Sahara châu Phi kể từ năm 2000. Ở cận Sahara châu Phi, tỷ lệ nhiễm trung bình ở trẻ em từ 2 – 10 tuổi từ 26% trong năm 2000 xuống còn 14% trong năm 2013 - tương ứng với sự suy giảm 48%. Mặc dù sự suy giảm ký sinh trùng sốt rét được thấy cả lục địa châu Phi, nhưng chủ yếu ở Trung Phi. Thậm chí dân số đang phát triển nhanh ở những khu vực lan truyền sốt rét không thay đổi, số trường hợp nhiễm ở toàn bộ châu Phi giảm từ 173 triệu ca trong năm 2000 xuống còn 128 triệu ca trong năm 2013 - giảm 26% số người nhiễm bệnh

Ước tính số ca mắc và tử vong do sốt rét

Trên thế giới, giai đoạn 2000 – 2013, ước tính tỷ lệ tử vong sốt rét giảm 47%, riêng khu vực châu Phi giảm 54%. Trong đó, ước tính số trường hợp mắc số rét ở trẻ em giảm 53% trên phạm vi toàn cầu và 58% ở khu vực châu Phi. Nếu tỷ lệ giảm hằng năm xảy ra giống trong giai đoạn 2000 – 2013 được duy trì, thì sau năm 2015 tỷ lệ tử vong ước lượng giảm 55% trên toàn cầu và 62% ở khu vực châu Phi. Trẻ em dưới 5 tuổi vào năm 2015, ước tính giảm 61% trên quy mô toàn cầu và 67% ở khu vực châu Phi

 

Ước tính số ca mắc và tử vong ngăn chặn được

Một ước tính trên phạm vi toàn cầu, ít hơn 670 triệu ca mắc và 4.3 triệu ca tử vong đã xảy ra trong giai đoạn 2001 và 2013, tỷ lệ mắc và tử vong duy trì không đổi kể từ năm 2000. Uớc tính khoảng 4,3 triệu ca tử vong được ngăn chặn trong giai đoạn 2001-2013, 3,9 triệu ca (92%) là trẻ em dưới 5 tuổi ở khu vực cận Sahara châu Phi. 3,9 triệu ca là trẻ em được ngăn chặn tử vong chiếm 20% trong tổng số 20 triệu ca dưới 5 tuổi tử vong mà đã xảy ra trong giai đoạn 2001 – 2013 là trẻ em tỷ lệ tử vong dưới 5 tuổi cho năm 2000 trong mỗi năm trong giai đoạn 2001 – 2013. Do đó, giảm tử vong sốt rét có đóng góp đáng kể đối với những tiến bộ hướng đến đạt được mục tiêu MDG 4, điều này để giảm 2/3, tỷ lệ tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trong giai đoạn 1990 và 2015

CÁC DỮ LIỆU THỐNG KÊ LIÊN QUAN ĐẾN SỐT RÉT CHÍNH

Kể từ năm 2000

Tỷ lệ nhiễm sốt rét trung bình giảm 48% ở trẻ em từ 2 – 10 tuổi, từ 26% đến 14% trong năm 2013.

Số ca nhiễm sốt rét giảm 26%, từ 173 triệu xuống còn 128 triệu ca trong năm 2013.

Tỷ lệ tử vong sốt rét giảm 47% trên toàn thế giới và giảm 54% ở khu vực châu Phi

 
Năm 2013

 

Chỉ có 2.7 tỷ USD

Trong khi đó phải cần 5.1 tỷ USD để đạt được các mục tiêu loại trừ và phòng chống sốt rét trên toàn cầu thông qua các quỹ tài trợ quốc tế và trong nước.

49%

Dân số nguy cơ ở khu vực cận Sahara châu Phi đã tiếp cận với màn ITN

 

44%

Dân số nguy cơ ở khu vực cận Sahara châu Phi ngủ dưới màn tẩm hóa chất diệt côn trùng, điều này cho thấy 90% người dân được sử dụng màn phù hợp

 

278 triệu

Trong số 840 triệu người có nguy cơ sốt rét ở khu vực cận Sahara châu Phi sống trong những ngôi nhà thậm chí không có một biện pháp can thiệp là ngủ màn

57%

Phụ nữ mang thai nhận ít nhất một liều IPTp và 17% phụ nữ mang thai nhận 3 hoặc nhiều hơn ở 9 quốc gia báo cáo.

15 triệu

Trong số 37 triệu phụ nữ mang thai không nhân một liều đơn IPTp

 

197 triệu

Bệnh nhân trên toàn thế giới được xét nghiệm sốt rét bằng kính hiển vi

 

62%

Bệnh nhân nghi ngờ sốt rét ở khu vực châu Phi nhận xét nghiệm chẩn đoán ở cơ sở y tế công.

70% bệnh nhân sốt rét có thể được điều trị với ACTs được phân bố tới cơ sở công ở châu Phi; tuy nhiên không phải tất cả trẻ em sốt đều đưa đến chăm sóc, ít hơn 26% trẻ em sốt rét nhận điều trị ACTs

 

56–69 triệu

trẻ em sốt rét không nhận điều trị ACTs

 

584.000

Ca tử vong sốt rét (khoảng 367.000-755.000) xảy ra trên toàn thế giới; 78% ca tử vong sốt rét xảy ra trẻ em dưới 5 tuổi.

528.000

Ca tử vong sốt rét (khoảng 315.000-689.000), 90% tổng số ca tử ovng sốt rét trên toàn cầu xảy ra ở khu vực châu Phi.


Năm 2015

 

Nếu tỷ lệ giảm hàng năm trong hơn 13 năm qua được duy trì thì tỷ lệ tử vong sốt rét ước tính giảm 55% trên toàn cầu và 62% ở khu vực châu Phi.

 

Tỷ lệ tử vong sốt rét ở trẻ em dưới 5 tuổi ước tính giảm khoảng 61% trên toàn cầu và 67% ở khu vực châu Phi.

 

Ngày 15/01/2015
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang và Ths. Đỗ Văn Nguyên  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích