Ngày thế giới phòng chống bệnh dại (WRD) và một số hiểu biết về bệnh dại
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), ngày 28 tháng 9 hàng năm là Ngày phòng chống bệnh dại thế giới (World Rabies Day_WRD_WRD) nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về tác hại của bệnh dại đối với người và động vật và tuyên truyền cách phòng chống bằng cách ngăn chặn bệnh dại ở động vậ theo chủ đề WRD năm 2015: “Hãy cùng nhau kết thúc bệnh dại bằng cách tiêm phòng cho chó” (Let’s end rabies together by vaccinating dogs).
Lịch sử WRD Bệnh dại là một trong những bệnh truyền nhiễm xuất hiện từ 2.300 năm trước công nguyên được coi là căn bệnh chết người nguy hiểm nhất, ngay từ năm 1885 nhà bác học Louis Pasteur đã thử nghiệm thành công loại vắc xine phòng dại đầu tiên được nuôi cấy từ tủy sống của thỏ. WHO cho biết, bệnh dại có ở hầu khắp các lục địa (trừ châu Nam Cực) với trên 55.000 người chết vì bệnh dại hàng năm, trong đó 95% các ca tử vong xảy ra ở Châu Á và Châu Phi. Về các loài động vật lây truyền bệnh dại cho người thì chó được xem là động vật chủ yếu gây bệnh dại trên thế giới nhưng ở châu Mỹ thì dơi là nguồn lây bệnh chủ yếu, đặc biệt là những năm gần đây dơi cũng là loài động vật lây bệnh dại cho người ở châu Đại dương (Australia) và châu Âu. Các động vật hoang dã như chồn, cáo, sóc, chó rừng, mèo rừng hiếm khi lây bệnh dại cho người. Bệnh dại lây truyền khi tiếp xúc với nước bọt, vết thương của người bệnh dại hoặc qua vết cắn của động vật có chưa virus dại.. Ngày thế giới phòng chống bệnh dại (WRD) là một chiến dịch quốc tế phối hợp của liên minh toàn cầu về kiểm soát bệnh dại (GARC)-một tổ chức phi chính phủ có trụ sở chính tại Hoa Kỳ (USA) và Vương Quốc Anh (UK) là tổ chức có xác nhận quốc tế của các tổ chức sức khỏe con người và thú y như Tổ chức Y tế thế giới (WHO), Tổ chức Thú y thế giới (OEC), các trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh…Ngày thế giới phòng chống bệnh bại liệt diễn ra vào ngày 28 tháng 9 hàng năm nhằm kỷ niệm ngày mất của nhà bác học Louis Pasteur, người đã cùng các đồng nghiệp thử nghiệm thành công loại vắc xine phòng dại đầu tiên được nuôi cấy từ tủy sống của thỏ. WRD cũng nhằm mục đích nâng cao nhận thức toàn cầu về tác động của bệnh dại trên người và động vật, tăng cường giáo dục cồng đồng địa phương phòng chống bệnh dại, cung cấp thông tin và lời khuyên về cách để ngăn chặn căn bệnh này và làm thế nào các cá nhân và tổ chức có thể giúp loại bỏ các nguồn chính toàn cầu, huy động và tổng hợp tất cả các nguồn lực để phòng dại cho người và kiểm soát dịch bệnh trên động vật.
| Cẩn trọng phơi nhiễm virus dại khi cho trẻ em tiếp xúc với chó hoặc mèo |
Hiểu biết về bệnh dại Đặc điểm lâm sàng bệnh dại Theo Bộ Y tế (MoH), bệnh dại là một trong những bệnh truyền nhiễm nhóm B trong Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm có mã số (ICD-10 A82: Rabies) là bệnh nhiễm vi rút cấp tính của hệ thống thần kinh trung ương từ động vật lây sang người bởi chất tiết, thông thường là nước bọt bị nhiễm vi rút dại. Hầu hết các trường hợp phơi nhiễm với bệnh dại đều qua vết cắn, vết liếm của động vật mắc bệnh dại, đôi khi có thể bị nhiễm qua đường tiếp xúc như hít phải khí dung hoặc ghép tổ chức mới bị nhiễm vi rút dại, khi đã lên cơn dại thì tất cả (100%) người và động vật đều dẫn đến tử vong. Giai đoạn tiền triệu chứng (1- 4) ngày thường biểu hiện cảm giác sợ hãi, đau đầu, sốt, mệt mỏi, khó chịu, cảm giác tê và đau tại vết thương nơi vi rút xâm nhập; giai đoạn viêm não (2-3 ngày) thường biểu hiện mất ngủ, tăng cảm giác kích thích như sợ ánh sáng, tiếng động và gió nhẹ; ngoài ra còn có rối loạn hệ thần kinh thực vật như giãn đồng tử, tăng tiết nước bọt, vã mồ hôi, hạ huyết áp, đôi khi có biểu hiện xuất tinh tự nhiên.
| Cần hạn chế tiếp xúc với động vật nuôi |
Bệnh tiến triển theo hai thể: thể liệt kiểu hướng thượng (hội chứng Landly) và thể cuồng thường kéo dài từ 2- 6 ngày, đôi khi lâu hơn và chết do liệt cơ hô hấp.Chẩn đoán bệnh dựa vào các triệu chứng lâm sàng, đặc biệt là các chứng sợ nước, sợ gió, sợ ánh sáng với các yếu tố dịch tễ học có liên quan. Chẩn đoán xác định bằng xét nghiệm kháng thể miễn dịch huỳnh quang trực tiếp (IFA) từ mô não hoặc phân lập vi rút trên chuột hay trên hệ thống nuôi cấy tế bào. Có thể dựa vào kết quả xét nghiệm miễn dịch huỳnh quang của các mảnh cắt da đã làm đông lạnh lấy từ dìa tóc ở gáy bệnh nhân hoặc chẩn đoán huyết thanh bằng phản ứng trung hoà trên chuột hay trên nuôi cấy tế bào. Hiện nay, với kỹ thuật mới có thể phát hiện được ARN của vi rút dại bằng phản ứng PCR hoặc phản ứng RT-PCR.
Đặc điểm dịch tễ học bệnh dại Theo WHO, bệnh dại phổ biến trên toàn thế giới, mỗi năm có trên 10 triệu người bị súc vật dại hoặc nghi dại cắn phải đi điều trị dự phòng bằng vắc xin dại, có khoảng 60.000 - 70.000 người bị chết do bệnh dại, phần lớn được báo cáo từ các nước thuộc vùng nhiệt đới, nơi có tới 3/4 dân số thế giới sinh sống. Tại châu Âu bệnh dại lưu hành rộng rãi ở loài cáo, tuy nhiên số trường hợp mắc dại ở miền Tây châu Âu đã giảm rất mạnh từ năm 1992. Tại châu Mỹ, thú hoang dã bị bệnh dại thường xảy ra ở gấu trúc, chồn, cáo, chó sói đồng và dơi. Tại châu Phi và châu Á, chó là nguồn gây bệnh chủ yếu, số người chết hàng năm vì bệnh dại rất cao. Ở khu vực Đông Nam Á, hàng năm tỷ lệ chết vì bệnh dại chiếm 80% trên toàn thế giới.
| Virus gây bệnh dại thuộc họ Rhabdoviridae, giống Lyssavirus có hình viên đạn |
Tác nhân gây bệnh WHO cho biết bệnh dại là một bệnh viêm não-tủy cấp tính do virus gây bệnh dại thuộc họ Rhabdoviridae, giống Lyssavirus có hình viên đạn với vỏ phospholipids bao gồm các glycoprotein và ribonuceic acid; vi rút có chiều dài trung bình 100-300 nm, đường kính 70-80 nm, sự thay đổi chiều dài của vi rút phản ánh sự khác biệt giữa các chủng vi rút dại. Bộ gen di truyền của virus dại là ARN bao gồm protein 67%, lipid 26%, ARN 1% và cacbonhydrat 3%; vỏ vi rút có hai màng mỏng phospholipid xen kẽ với những gai, Nucleocapside có cấu trúc đối xứng hình trụ, nhân là ARN một sợi, được bảo vệ bằng những đơn vị nucleoprotein mang tính đặc hiệu của họ Rhabdo, vỏ ngoài của vi rút là chất lipid nên dễ bị phá hủy trong các chất dung môi của lipid.. Theo WHO, họ Rhabdoviridae bao gồm hơn 200 loại virus phân bố rộng rãi trong thiên nhiên, nhiễm cho động vật có xương sống và không xương sống, kể cả người được chia làm 2 giống giống Vesiculovirus gây viêm miệng có mụn nước và giống Lyssavirus với khoảng 80 virus khác nhau. Mặc dù virus dại chỉ có một kiểu kháng nguyên duy nhất nhưng các dòng virus phân lập từ các loài khác nhau ở các vùng địa lý khác nhau có các epitop trên nocleoprotein và glycoprotin khác nhau, dùng kháng thể đơn dòng hoặc trình tự nucleotid đặc hiệu để xác định những epitop khác nhau mà trong đó các gai virus chứa glycoprotein tạo kháng thể trung hòa ở động vật, kháng huyết thanh kháng nucleocapsit có thể giúp chẩn đoán bệnh dại bằng phản ứng miễn dịch huỳnh quang. Sức đề kháng của vi rút dại yếu, dễ bị bất hoạt ở nhiệt độ 560C/trong vòng 30 phút, ở 600C/ trong vòng 5-10 phút và ở 700C/chỉ trong 2 phút; vi rút bị mất độc lực dưới ánh sáng và các chất sát khuẩn ở nồng độ 2-5%, trong điều kiện nhiệt độ 40C vi rút sống được từ vài tuần đến 12 tháng, ở nhiệt độ dưới 00C sống được từ 3 - 4 năm. Vi rút dại được bảo tồn chủ yếu trong cơ thể vật chủ nhưng lại kém bền vững với các yếu tố ngoại cảnh nên dễ dàng bị tiêu diệt bởi tia cực tím hoặc ánh sáng mặt trời, xà phòng đặc 20%, sức nóng 50oC/1 giờ và các dung môi lipid, trypsin, chất tẩy, chất oxy hóa và pH quá cao hoặc quá thấp. Về khả năng miễn dịch, kháng thể đặc hiệu với virus dại xuất hiện muộn trong huyết thanh bệnh nhân, kháng thể trung hòa trong máu xuất hiện khi sau khi tiêm vắcxin phòng dại vào cơ thể 10 ngày và tồn tại khoảng 7 tháng.
| Vaccine phòng chống bệnh dại |
Phòng chống bệnh dại Khi bị chó dại cắn biện pháp phòng ngừa chủ yếu là tiêm phòng bệnh bệnh dại bằng vắc xin hoặc huyết thanh kháng dại, virus dại nhân lên trong cơ gần nơi chích cho đến khi có đủ nồng độ nhiễm vào hệ thần kinh trung ương.Kháng thể thụ động có tác dụng trung hòa bớt virus, làm giảm nồng độ virus do đó vắcxin phòng ngừa có tác dụng bảo vệ sau 2-8 tuần. Tất cả các vắc xin dùng cho người đều chứa virus dại bất hoạt mà theo đó vắcxin chế từ nuôi cấy tế bào có ưu thế hơn vắcxin chế từ mô thần kinh vì ít gây phản ứng phụ, vắcxin tế bào lưỡng bội người, vắcxin dại hấp thụ, vắcxin tế bào phôi gà tinh chế, vắcxin mô thần kinh, vắcxin phôi vịt và các virus sống giảm độc lực. Có hai loại huyết thanh kháng dại (kháng thể dại) bao gồm globudin miễn dịch kháng dại của người là một gamma globulin có tính miễn dịch cao, điều chế từ huyết tương người với ethanol lạnh ít gây phản ứng phụ hơn huyết thanh ngựa kháng dại; huyết thanh ngựa kháng dại là huyết thanh được cô đặc từ ngựa có đáp ứng miễn dịch tốt với virus dại, đến nay huyết thanh ngựa kháng dại vẫn được dùng ở những nơi không có glubulin miễn dịch kháng dại của người.
| Thường xuyên truyền thông và tư vấn phòng chống bệnh dại cho cộng đồng |
Biện pháp dự phòng chủ yếu là tuyên truyền, giáo dục sức khỏe như cung cấp thông tin cần thiết về bệnh dại và cách phòng chống bệnh dại, nhất là việc phát hiện súc vật bị bệnh dại, cách xử lý sau khi bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc; đến các cơ sở y tế dự phòng để khám, tư vấn và điều trị dự phòng kịp thời; phổ biến nội dung, biện pháp phòng chống bệnh dại ở động vật và ở người để cộng đồng biết và thực hiện. Phối hợp thú y và y tế thực hiện giám sát nơi có ổ dịch chó dại cũ, nơi thường xảy ra bệnh dại ở súc vật, những nơi mua bán súc vật nhất là chó, mèo; thực hiện đăng ký, cấp giấy phép cho chủ nuôi chó, mèo; tiêm vắc xin dại có hiệu lực cho đàn chó, mèo đạt trên 85% trong quần thể súc vật nuôi; những người có nguy cơ bị nhiễm vi rút dại như nhân viên thú y, kiểm lâm, làm việc trong phòng thí nghiệm có vi rút dại... cần được gây miễn dịch bằng vắc xin dại tế bào có hiệu lực bảo vệ cao và tiêm nhắc lại theo chỉ định của y tế.
| Cần xử lý ngay vết thương khi bị động vật cắn |
Điều trị bệnh dạiXử lý vết thương bị chó dại cắn: rửa ngay thật kỹ vết cắn bằng nước xà phòng đặc, sau đó rửa bằng nước muối, bôi chất sát trùng như cồn, cồn iốt để làm giảm lượng vi rút tại vết cắn, chỉ khâu vết thương trong trường hợp vết cắn đã quá 5 ngày, tiêm vắc xin uốn ván và điều trị chống nhiễm khuẩn nếu cần.
| Hoặc tiêm vaccine kháng dại kịp thời |
Điều trị bảo vệ bằng miễn dịch đặc hiệu, dùng vắc xin dại tế bào hoặc dùng cả vắc xin và huyết thanh kháng dại (HTKD) để điều trị dự phòng tuỳ theo tình trạng súc vật, tình trạng vết cắn, tình hình bệnh dại ở súc vật trong vùng. Không được lạm dụng trong sử dụng vắc xin và HTKD. Việc khám bệnh nhân bị súc vật cắn hoặc tiếp xúc để có chỉ định điều trị dự phòng bằng vắc xin dại hoặc vắc xin + HTKD phải thực hiện càng sớm càng tốt. Hiệu quả điều trị dự phòng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như loại vắc xin, kỹ thuật tiêm, bảo quản sinh phẩm, đáp ứng miễn dịch của người bệnh.
|