Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đang làm việc với Chính phủ Nam Sudan và các đối tác cung cấp vắc-xin chống lại bệnh tả để bảo vệ cho gần 140.000 người sống trong các trại tỵ nạn tạm thời ở Nam Sudan.
140.000 người uống vắc-xin tả ở Nam Sudan
Ngày 22/2/2014. GENEVA – Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đang làm việc với Chính phủ Nam Sudan và các đối tác cung cấp vắc-xin chống lại bệnh tả để bảo vệ cho gần 140.000 người sống trong các trại tỵ nạn tạm thời ở Nam Sudan. Các loại vắc-xin đến từ một kho dự trữ khẩn cấp được quản lý bởi WHO, Liên đoàn quốc tế Hội Chữ thập đỏ và Trăng lưỡi liềm đỏ (IFRC ), Bác sỹ không biên giới (Médecins Sans Frontières - MSF) và Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp quốc (UNICEF). Đây là lần đầu tiên các kho dự trữ được tạo ra vào năm 2013 bởi WHO đang được kích hoạt.
Mặc dù hiện tại không có một vụ bùng phát dịch tả nhưng vì người dân phải di dời do cuộc xung đột gần đây và sống trong các trại tỵ nạn có nguy cơ do điều kiện vệ sinh kém và tình trạng quá tải. Bắt đầu từ ngày hôm nay, 94.000 người sẽ được uống vaccine tả ở trại Minkaman, Awerial County, nhắm mục tiêu cho người phải di dời và cộng đồng chủ nhà, tiếp theo là chiến dịch uống phòng vaccine tả trong các trại có trụ sở tại Juba, bao phủ thêm 43.000 người.
Hai liều vaccine là đòi hỏi để bảo vệ cho một cá nhân. Chiến dịch bắt đầu với một vòng chủng ngừa ban đầu theo sau - sau một khoảng thời gian yêu cầu là 14 ngày - một vòng sử dụng liều thứ hai và như thế sẽ hoàn thành việc uống phòng. Để một chiến dịch như vậy có hiệu quả, thì điều quan trọng là một liều thứ hai được quản lý và yếu tố này dẫn đến quyết định để bắt đầu với Minkaman, Awerial County và các trại ở Juba. "Trại Minkaman ở Awerial County và trại Juba đã được chọn vì sự ổn định tương đối của tình hình và tiếp cận dễ dàng hơn ở những nơi này", Tiến sĩ Abdinasir Abubakar từ Đội giám sát và đáp ứng dịch bệnh của WHO ở Nam Sudan cho biết: "Chúng tôi cũng đang tìm kiếm các trại khác và một khi tiếp cận và tình hình an ninh được cải thiện, chúng tôi sẽ mở rộng chiến dịch uống phòng dịch tả vào các khu vực này. Chúng tôi sẽ xem xét tình hình từng ngày".
Tại sao phải chủng ngừa chống lại bệnh tả? (Why vaccinate against cholera?)
Bệnh tả là một bệnh nhiễm trùng tiêu chảy cấp tính do ăn phải thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm và ảnh hưởng đến trẻ em và người lớn, bệnh có thể giết chết bệnh nhân trong một vài giờ do mất nước nhanh chóng. Trẻ em có nguy cơ cao bị lây nhiễm, một khi bị nhiễm ngoài việc mất nước trẻ em còn bị hạ đường huyết nặng có thể dẫn đến hôn mê và tử vong. Tương tự như vậy, các nhóm “nguy cơ” (ví dụ người bị suy dinh dưỡng, người già, phụ nữ mang thai, người mắc bệnh mãn tính nghiêm trọng, bệnh nhân AIDS) có nhiều khả năng phát triển các thể bệnh nghiêm trọng. Tiếp cận với nước sạch và vệ sinh môi trường vẫn là trụ cột trong phòng ngừa sự lưu hành và bùng phát dịch tả, cùng với giáo dục sức khỏe để thúc đẩy việc áp dụng các thực hành vệ sinh thích hợp. Vaccin phòng bệnh tả là một công cụ bổ sung an toàn và hiệu quả, có thể được sử dụng trong điều kiện thích hợp nhằm bổ sung các biện pháp phòng chống dịch tả ưu tiên hiện có. WHO sẽ phối hợp chiến dịch trong sự hợp tác với MSF và Medair như là một đối tác thực hiện tại Awerial và Juba tương ứng riêng rẽ.
Ghi chú của Ban biên tập (Note to editors)
Tập đoàn điều phối quốc tế (International Coordinating Group_ICG) với các đại diện của WHO, IFR, MSF và UNICEF có cơ chế quản lý cho việc triển khai vắc-xin tả uống (oral cholera vaccines_OCVs) thông qua các kho dự trữ khẩn cấp, nó còn điều phối việc cung cấp từ các kho dự trữ vaccine viêm màng não và sốt vàng quốc tế.
Cập nhật thông tin về phòng chống dịch bệnh tả của WHO
Tháng 2/2014. WHO - Bệnh tả là một bệnh nhiễm trùng tiêu chảy cấp tính do ăn phải thực phẩm hoặc nước bị ô nhiễm với vi khuẩn Vibrio cholerae. Mỗi năm, ước tính có khoảng 3-5 triệu ca nhiễm tả và khoảng 100.000-120.000 trường hợp tử vong do tả. Thời gian ủ bệnh ngắn từ 2 giờ đến 5 ngày, làm gia tăng khả năng bùng nổ dịch bệnh tả.
Các triệu chứng (Symptoms)
Bệnh tả là một bệnh cực kỳ nguy hiểm, ảnh hưởng đến cả trẻ em và người lớn và có thể giết chết bệnh nhân chỉ trong vòng vài giờ. Khoảng 75 % số người bị nhiễm V.cholerae không phát triển bất cứ triệu chứng nào, mặc dù vi khuẩn hiện diện trong phân của họ trong vòng từ 7-14 ngày sau khi nhiễm bệnh và đổ trở lại vào môi trường làm tăng khả năng lây nhiễm cho người khác. Trong số những người phát triển các triệu chứng thì có đến 80% có triệu chứng nhẹ hoặc trung bình, trong khi khoảng 20% phát triển thành tiêu chảy cấp với mất nước nghiêm trọng, điều này có thể dẫn đến tử vong nếu không được điều trị. Những người có khả năng miễn dịch thấp như trẻ em bị suy dinh dưỡng hoặc người bị HIV có nguy cơ tử vong lớn hơn nếu bị nhiễm bệnh.
Lịch sử (History)
Trong thế kỷ 19, bệnh tả lây lan trên toàn thế giới từ ổ chứa ban đầu của nó ở vùng đồng bằng sông Hằng của Ấn Độ. 6 đại dịch tiếp theo giết chết hàng triệu người trên khắp các châu lục. Đại dịch hiên tại (Đại dịch lần thứ 7) bắt đầu ở Nam Á vào năm 1961 và lan đến châu Phi vào năm 1971, châu Mỹ năm 1991. Hiện nay bệnh tả lưu hành ở nhiều quốc gia.
Chủng Vibrio cholerae (Vibrio cholerae strains)
Hai typ huyết thanh của V.cholerae - O1 và O139 gây ra sự bùng phát dịch. V.cholerae O1 gây ra phần lớn các vụ dịch, trong khi O139 - lần đầu tiên được xác định ở Bangladesh vào năm 1992 chỉ giới hạn trong khu vực Đông Nam Á. Typ huyết thanh Non- O1 và Non- O139 V. cholerae có thể gây tiêu chảy nhẹ nhưng không gây ra thành dịch bệnh. Gần đây, các chủng biến thể mới đã được phát hiện trong một số vùng của châu Á và châu Phi. Quan sát cho thấy các chủng này gây ra bệnh tả nghiêm trọng hơn với tỷ lệ tử vong cao hơn, giám sát dịch tễ học cẩn thận các chủng lưu hành là được khuyến cáo. Các ổ chứa chính của V.cholerae là con người và nguồn lợi thủy sản ở vùng nước lợ và ở các cửa sông, thường gắn liền với tảo nở hoa. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng sự nóng lên trên toàn cầu tạo ra một môi trường thuận lợi cho vi khuẩn.
Yếu tố nguy cơ và gánh nặng bệnh tật (Risk factors and disease burden)
Sự lan truyền bệnh tả có mối liên quan chặt chẽ với việc xử lý môi trường không đầy đủ, vùng có nguy cơ cao điển hình bao gồm khu nhà ổ chuột ven đô, nơi mà cơ sở hạ tầng cơ bản là không có sẵn cũng như các trại dành cho người tị nạn hoặc di tản quốc tế, trong đó yêu cầu tối thiểu về nước sạch và vệ sinh môi trường không được đáp ứng. Hậu quả của một thảm họa như sự phá vỡ của hệ thống nước và vệ sinh môi trường hoặc sự dịch chuyển của quần thể cư dân đến các trại không đầy đủ và đông đúc có thể làm tăng nguy cơ lây truyền bệnh tả khi vi khuẩn có mặt hoặc được đưa vào. Dịch bệnh chưa bao giờ phát sinh từ xác chết. Dịch tả vẫn còn là một mối đe dọa toàn cầu đối với sức khỏe công cộng và một chỉ số quan trọng của yếu kém về phát triển xã hội, gần đây sự tái xuất hiện của bệnh tả đã được ghi nhận song song với kích thước ngày càng tăng của quần thể dễ bị tổn thương sống trong điều kiện mất vệ sinh. Số lượng các trường hợp mắc bệnh tả báo cáo với WHO tiếp tục gia tăng. Chỉ tính riêng trong năm2011, tổng cộng có 589.854 trường hợp đã được thông báo từ 58 quốc gia, trong đó có 7816 trường hợp tử vong. Nhiều trường hợp hơn là không được ghi nhận do những hạn chế trong hệ thống giám sát và sợ hãi bị trừng phạt về thương mại và du lịch. Gánh nặng thực sự của căn bệnh này được ước tính trong khoảng từ 3-5 triệu trường hợp và 100.000 đến 120.000 trường hợp tử vong mỗi năm.
Phòng chống bệnh tả (Prevention and control)
Một cách tiếp cận đa ngành dựa trên phòng ngừa, sẵn sàng đối phó cùng với một hệ thống giám sát hiệu quả là chìa khóa để giảm thiểu sự bùng phát dịch tả, phòng chống tả trong vùng lưu hành bệnh và làm giảm tử vong.
Điều trị (Treatment)
Bệnh tả là một bệnh có thể điều trị dễ dàng, có tới 80% số người có thể được điều trị thành công thông qua cho uống kịp thời các chất điện giải (muối bù nước đường uống) (gói ORS chuẩn của WHO/UNICEF). Bệnh nhân mất nước rất nghiêm trọng đòi hỏi phải truyền dịch bằng đường tĩnh mạch, những bệnh nhân này cũng đòi hỏi sử dụng kháng sinh thích hợp để làm giảm thời gian tiêu chảy và làm giảm thể tích dịch bù cần thiết và rút ngắn thời gian V.cholerae bài thải. Điều trị kháng sinh đại trà không được khuyến cáo, vì nó không ảnh hưởng đến sự lây lan của bệnh dịch tả và góp phần gia tăng sức đề kháng lại kháng sinh. Để đảm bảo tiếp cận kịp thời với điều trị, trung tâm điều trị bệnh tả (cholera treatment centres_CTCs) nên được thiết lập giữa các quần thể bị ảnh hưởng. Nếu điều trị thích hợp, thì tỷ lệ tử vong do tả vẫn còn ở mức dưới 1%.
Đáp ứng với dịch bệnh (Outbreak response)
Ngay khi một vụ dịch được phát hiện, thì chiến lược can thiệp thông thường là giảm tử vong bằng cách đảm bảo tiếp cận nhanh chóng với điều trị và kiểm soát sự lây lan của căn bệnh này bằng cách cung cấp nước sạch, vệ sinh môi trường thích hợp và giáo dục sức khỏe nhằm cải thiện tình trạng vệ sinh và thực hành vệ sinh tay đối với an toàn thực phẩm bởi cộng đồng. Việc cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường là một thách thức lớn nhưng vẫn là yếu tố quan trọng trong việc giảm thiểu tác động của dịch tả.
Các vaccine tả uống (Oral cholera vaccines)
Có 2 loại vắc-xin tả uống an toàn và hiệu quả hiện có trên thị trường, cả hai đều là vaccine giết chết toàn bộ tế bào, một với tái tổ hợp B, loại khác thì không. Cả hai loại vaccine duy trì bảo vệ hơn 50 % kéo dài trong hai năm ở các nơi lưu hành đã qua vòng sơ tuyển và cấp phép bởi WHO trong hơn 60 quốc gia. Dukoral đã được chứng minh bảo vệ ngắn hạn trong khoảng 85-90% chống lại V.cholerae O1 trongtất cả các nhóm tuổi từ 4-6 tháng sau khi uống. Vắc-xin khác (Shanchol) cung cấp bảo vệ lâu dài chống lại V.cholerae O1 và O139 ở trẻ em dưới 5 tuổi. Cả hai loại vắc-xin được sử dụng hai liều cách nhau 7 ngày và 6 tuần tương ứng với từng loại vaccin, vaccin tái tổ hợp (Dukoral) được cho vào trong 150 ml nước an toàn.
WHO khuyến cáo việc chủng ngừa các loại vắc xin tả hiện có thể được sử dụng kết hợp cùng với các biện pháp phòng chống thông thường được khuyến cáo ở những nơi bệnh tả lưu hành cũng như trong các khu vực có nguy cơ bùng phát dịch bệnh. Vắc-xin cung cấp một sự bảo vệ ngắn hạn, trong khi các hoạt động dài hạn như cải thiện nước và vệ sinh môi trường cần được đặt ra. Khi sử dụng, việc chủng ngừa nên nhắm mục tiêu đến các quần thể dễ bị tổn thương sống trong vùng có nguy cơ cao và không làm gián đoạn việc cung cấp các biện pháp can thiệp khác nhằm phòng chống dịch bệnh tả. Công cụ tạo ra quyết định 3 bước của WHO nhằm mục đích hướng dẫn cơ quan y tế trong việc quyết định sử dụng vắc-xin dịch tả trong trường hợp khẩn cấp phức tạp. Việc sử dụng vắc-xin dịch tả bằng đường tiêm chưa bao giờ được khuyến cáo bởi WHO do hiệu quả bảo vệ thấp và sự xuất hiện cao các phản ứng phụ nghiêm trọng.
Thương mại và du lịch (Travel and trade)
Hiện nay, không một quốc gia nào đòi hỏi bằng chứng về tiêm phòng dịch tả như một điều kiện để nhập cảnh, kinh nghiệm quá khứ cho thấy rằng các biện pháp kiểm dịch và lệnh cấm trên sự đi lại của người và hàng hóa là không cần thiết. Trường hợp cá biệt bệnh tả liên quan đến thực phẩm nhập khẩu có liên quan đến thực phẩm thuộc sở hữu của các du khách cá nhân, do đó hạn chế nhập khẩu thực phẩm sản xuất theo thực hành sản xuất tốt, dựa trên thực tế duy nhất rằng bệnh tả gây dịch hoặc bệnh lưu hành ở một quốc gia là không hợp lý. Các nước cận kề với các khu vực bị ảnh hưởng bởi bệnh tả được khuyến khích tăng cường giám sát dịch bệnh và chuẩn bị cấp quốc gia để nhanh chóng phát hiện và đối phó với sự bùng phát dịch tả lây lan qua biên giới. Hơn nữa, thông tin cần được cung cấp cho khách du lịch và cộng đồng về nguy cơ và triệu chứng tiềm năng của bệnh tả, cùng với các biện pháp phòng ngừa để tránh bệnh tả, và khi nào và nơi để báo cáo ca bệnh.
Đáp ứng của Tổ chức y tế thế giới (WHO response)
Thông qua lực lượng về phòng chống bệnh tả trên toàn cầu của WHO, hoạt động của WHO tập trung cung cấp tư vấn kỹ thuật và hỗ trợ cho việc kiểm soát và phòng chống bệnh tả ở cấp quốc gia (provide technical advice and support for cholera control and prevention at country level); đào tạo chuyên gia y tếở cấp quốc gia, khu vực và quốc tế trong phòng chống , sẵn sàng đối phó tình hình dịch bệnh tiêu chảy (train health professionals at national, regional and international levels in prevention, preparedness and response of diarrhoeal disease outbreaks); hổ biến thông tin và các hướng dẫn về bệnh tả và các bệnh đường ruột dễ gây dịch bệnh khác cho các chuyên gia y tế và công chúng nói chung (disseminate information and guidelines on cholera and other epidemic-prone enteric diseases to health professionals and the general public).