Chồn sương, lợn nhậy cảm với virus cúm gia cầm H7N9
Các nhà khoa học Trung quốc và Mỹ đã dùng virus được phân lập từ một người bị chết do cúm A H7N9 để xác định có hay không virus có thể nhiễm và lan truyền giữa các chồn sương. Chồn sương thường được sử dụng như một mô hình động vật có vú trong nghiên cứu cúm và sự lan truyền cúm có hiệu quả giữa chồn sương có thể cung cấp một manh mối làm thế nào mà một quá trình tương tự có thể xảy ra ở người. Các nhà nghiên cứu đã lấy các hạt của virus H7N9 trong các mũi của 6 con chồn sương. Một ngày sau, ba con chồn sương không bị nhiễm đặt ở chung chuồng với các con bị nhiễm, và ba con chồn sương không bị nhiễm đặt ở chuồng bên cạnh. Tất cả các con chồn sương không bị nhiễm ở chung chuồng trở nên bị nhiễm bệnh trong khi chỉ có 1 trong ba con chồn sương ở chuồng bên cạnh bị nhiễm bệnh. Đội kết luận rằng virus có thể gây nhiễm cho chồn sương và có thể lây lan giữa chúng bởi tiếp xúc trực tiếp và ít hiệu quả bởi không khí. Các nhà khoa học phát hiện vật liệu virus ở trong chất bài tiết của mũi của các con chồn sương ít nhất một ngày trước khi các triệu chứng lâm sàng của bệnh xuất hiện.Hàm ý trong quan sát nàylà một người bị nhiễm cúm A H7N9 có thể không có triệu chứng tuy nhiên có thể lây lan ra người khác. Các nhà nghiên cứu cũng gây nhiễm cho lợn với virus cúm A H7N9 từ người. Trong môi trường tự nhiên lợn cũng có thể hoạt động như một chỗ trủng pha trộn thực sựmột sự kết hợp các chủng cúm đặc biệt gia cầm và động vật có vú, có khả năng cho phép cúm gia cầm thích nghi tốt hơn với con người. Các chủng mới nảy sinh từ các kết hợp có khả năng gây nhiễm tới người và khuấy động một vụ đại dịch vì thế thông tin về sự nhạy cảm của lợn với cúm A H7N9 có thể giúp các nhà khoa học phán đoán tiềm tàng đại dịch của virus cúm. Không giống với chồn sương, lợn bị nhiễm trong nghiên cứu nhỏ này không truyền virus tới các con không bị nhiễm hoặc là thông qua trực tiếp hoặc qua không khí .Tất cả các con lợn và chồn sương bị nhiễmcó các dấu hiệu nhẹ của bệnh nhưhắt xì hơi, chảy mũi nước, ngủ lịm và không có con bị nhiễm nào có bệnh trầm trọng. Nghiên cứu được sự hỗ trợ một phần bới Viện dị ứng và bệnh nhiễm khuẩn quốc gia thuộc Viện y tế quốc gia.
Phòng chống bệnh dại
Dại là bệnh ở động vật(một bệnh lan truyền đến người từ động vật) được gây ra bởi virus. Bệnh ảnh hưởng đến động vật nuôi và hoang dại, và được lan truyền đến người thông qua tiếp xúc gần với các nguyên liệu nhiễm khuẩn thường là nước bọt, thông qua vết cắn hay vết xước. Dại có mặt trên tất cả các lục địa ngoại trừ Nam cực, nhưng có hơn 95% các ca chết xảy ra ở Châu Á và Châu Phi, bệnh dại hầu như tử vong. Dại là một bệnh nhiệt đới bị lãng quên của người nghèo và người dễ bị tổn thương mà cái chết của họ hiếm khi được báo cáo. Nó xảy ra chủ yếu ở các vùng sâu, vùng xa, nơi các biện pháp phòng ngừa sự lan truyền từ chó đến người không được thực hiện Báo cáo không đầy đủ về bệnh dại cũng ngăn ngừa sự huy động các nguồn lực từ cộng đồng quốc tế cho việc loại trừbệnh dại ở người qua trung gian là chó.
Các triệu chứng
Thời gian ủ bệnh dại từ 1-3 tháng nhưng có thể dưới 1 tuần đếnhơn 1 năm. Triệu chứng đầu tiên của dại là sốt và thường đau hay một sự bất bình thường hay các kích thích bất thường,có cảm giác châm chích hay nóng ở vị trí vết thương. Bởi vì virus lan đến hệ thống thần kinh trung ương, các dấu hiệu viêm tiến triển nguy hiểm của não và tủy sống phát triển. Có hai thể bệnh như sau: Người bị bệnh dại với các cơn điên tiết có biểu hiện tăng hoạt động, kích thích hành vi, sợ nước và một đôi khi sợ gió. Sau một vài ngày bệnh nhân chết do ngừng tim-phổi. Liệt do dại chiếm khoảng 30% trong tổng số các ca ở người. Thể dại này diễn tiến ít nguy hiểm hơnvà thường diễn tiến dài hơn thể dại lên cơn điên tiết . Các cơ dần dần trở nên bị liệt bắt đầu ở vị trí vết cắn hay vết xước. Hôn mê phát triển một cách chậm chạp và cuối cùng chết xảy ra. Thể dại bị liệt là thường bị nhầm trong chẩn đoán và đóng góp tới các báo cáo không đầy đủ.
Chẩn đoán
Không có xét nghiệm sẵn có để chẩn đoán bị dại ở người trước khi khởi phát các triệu chứng lâm sàng trừ phi các dấu hiệu đặc trưng của bệnh dại là sợ nước và sợ gió hiện diện, chẩn đoán lâm sàng có thể khó khăn. Bệnh dại ở người có thẻ được xác định các cơ quan quan trọng và mổ tử thi bởi các kỹ thuật khác nhau nhằm mục đích phát hiện virus toàn bộ , kháng nguyên virus hay acid nucleic ở trong các tổ chức bị nhiễm ( não, da, nước tiểu hay nước bọt).
Sự lan truyền
Người thường bị nhiễm sau khi bị một vết cắn sâu hay chầy xước bởi một động vật bị nhiễm. Chó là vật chủ chính và là trung gian truyền bệnh dại. Chúng là nguồn lây nhiễm cho tất cả khoảng 50.000 ca chết mỗi năm ở Châu Á và Châu Phi. Dơi là nguồn lây nhiễm của hầu hết các ca chết do dại ở Hợp chủng quốc Hoa kỳ và Canada. Dại do dơi gần đây cũng trở thành bệnh mới nổiđe dọa sức khỏe công cộng ở Úc, Mỹ la tinh và Tây Âu. Tuy nhiên ở các vùng này số lượng các ca chết dại do dơi vẫn còn nhỏđứng sau so với số cachết dại do chó cắn. Chếtở người theo sau phơi nhiễm với cáo,gấu trúc, chồn hôi, chó rừng, cầy mangut và cácloàiđộng vật hoang dại ăn thịt khác là rất hiếm. Sự lan truyền cũng có thể xảy ra khi các vật liệu bị nhiễm thông thường lànước bọt xảy ra do tiếp xúc trực tiếp với màng nhầy con người hay các vết thương còn mới. Sự lan truyền giữa người và người về mặt lý thuyết có thể xảy ra nhưng không bao giờ được xác nhận. Hiếm khi bệnh dại có thể bị nhiễm bởi hít các khí dung chứa virus hay thông qua ghép một tạng bị nhiễm. Sử dụng thịt tái (chưa chín) hay các tổ chức khác từ một động vật bị nhiễm dại không là nguồn lây nhiễm cho con người.
Ai là nguy cơ cao nhất ?
Bệnh dại ở chó có khả năng đe dọa trên 3 tỷ người ở Châu Ấ và Châu Phi. Người có nguy cơ nhất sống ở các vùng nông thôn nơi mà vaccin hay immunoglabulin là không sẵn có hay dễ tiếp cận. Người nghèo có nguy cơ cao hơn bởi vì giá trung bình của PEP dại sau khi tiếp xúc với đọng vật nghi ngờ dại là 40 đô la ở Châu Phi và 49 đô la ở Châu Á, nơi mà thu nhập trung bình hàng ngày chỉ từ 1-2 đôla một người. Mặc dầu tất cả các nhóm tuổi đều có thể bị ảnh hưởng nhưng dại là phổ biến nhất ở trẻ em dưới 15 tuổi. Trung bình 40% PEP là được sử dụng cho trẻ em tuổi từ 9-15 và đa số là nam giới. Bất kỳ ai phơi nhiễm thường xuyên, liên tục hay gia tăng nguy cơ phơi nhiễm với virus dại- hoặc là bởi tự nhiên nơi cư trú của họ hay nghề nghiệp- cũng là nguy cơ. Các người đi du lịch với phơi nhiễm mạnh mẽ ở ngoài nhà ở vùng nông thôn, vùng có nguy cơ cao nơi mà tiếp cận tức thì tới chăm sóc y tế thích hợp có thể bị hạn chế phải được cân nhắc có nguy cơ bất kể khoảng thời gian lưu lại của họ. Trẻ em sống hay viến thăm các vùng bị ảnh hưởng bởi dại là đặc biệt nguy cơ.
Dự phòng và xử trí bệnh dại
Loại trừ dại ở chó
Dại là một bệnh có thể dự phòng bằng vaccin. Chiến lược chi phí hiệu quả nhất cho việc phòng chống bệnh dại ở người là loại trừ dại ở chó thông qua chủng ngừa .Chủng ngừa động vật (chủ yếu là chó) đã làm giảm số lượng ca bệnh dại ở người ( và động vật) trong một số quốc gia, đặc biệt là Mỹ Latinh. Tuy nhiên sự gia tăng ca chết do bệnh dại gần đây ở người tại một số vùng ở Châu Á, Châu Phi và Mỹ La tinh đề nghị rằng bệnh dại đang tái diễn như là một vấn đề y tế công cộng nghiêm trọng. Phòng ngừa bệnh dại ở người thông qua việc kiểm soát bệnh dại ở chó nuôi là một mục tiêu lý tưởng cho phần lớn ở nhiều vùng của Châu Á và Châu Phi, và là chi phí tài chính hợp lý bởi việc tiết kiệm không tiếp tục sử dụng PEP cho con người.
Dự phòng bằng chủng ngừa ở người
Vaccin an toàn hiệu quả có thể dùng để chủng ngừa sau phơi nhiễm Điều này đượckhuyến cáo cho những người đi du lịch dành nhiều thời gian ở bên ngoài, đặc biệt ở các vùng nông thôn có liên quan đến các hoạt động như đi xe đạp, cắm trại, hay hành quân dã ngoại cũng như du lịch trong một thời gian dài và sống lâu ở những vùng có nguy cơ phơi nhiễm đáng kể. Chủng ngừa sau phơi nhiễm cũng được khuyến cáo cho những người trong một số nghề có nguy cơ cao như các công nhân làm việc trong các phòng xét nghiệm giải quyếtvirus dại sống và các virus liên quan đến dại (lyssavirus) và những người có liên quan đến bất kỳ hoạt động nào có thế mang tính chuyên nghiệp hay về mặt khác có tiếp xúc trực tiếp với dơi, các động vật ăn thịt khác, hay các động vật có vú sống trong các vùng bị ảnh hưởng bởi dại. Trẻ em được cân nhắc như là nhóm có nguy cơ cao hơnbởi vì chúng có khuynh hướng chơi với động vật, có thể nhận nhiều vết cắn trầm trọng, hay có thể không báo cáo bị cắn thì sự chủng ngừa vaccin cho chúng có thể được cân nhắc nếu sống hay viếng thắm các vùng có nguy cơ cao.
Dự phòng sau phơi nhiễm
Dự phòng sau phơi nhiễm bao gồm xử trí vết thương tại chỗ càng sớm càng tốt sau khi phơi nhiễm; một liệu trình vaccin dại có hiệu lực và hiệu quả đáp ứng khuyến cáo của WHO; sử dụng huyết thanh kháng dại nếu có chỉ định. Điều trị hiệu quả sớm ngay sau khi phơi nhiễm với bệnh dại có thể ngăn ngừa sự khởi phát các triệu chứng và chết do dại.
Xử trítại chỗ vết thương
Loại bỏ virus dại ở vị trí nhiễm trùng bởi các phương pháp vật lý và hóa học là một biện pháp bảo vệ có hiệu quả. Do đó, xử trítức thì tại chỗ tất cả các vết thương bị cắn hay cào xướcmà có thể bị nhiễm bởi virus dại là quan trọng. Các thủ thuật sơ cứu ban đầu được khuyến nghị bao gồm sự tức thì và thông qua các tia nước và rửa vết thương tối thiểu 15 phút bằng xà phòng với nước, chất tẩy rửa, bôi cồn iod hay các chất khác mà nó giết virus dại. Dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) được khuyến cáo, PEP phụ thuộc vào loại tiếp xúc với động vật nghi ngờ dại, loại tiếp xúc và dự phòng sau phơi nhiễm (PEP) được khuyến cáo.
Loại tiếp xúc với động vật nghi ngờ dại | Biện pháp dự phòng sau phơi nhiễm |
Loại 1: tiếp xúc hay cho động vật ăn, lướt qua hay tiếp xúc với da | Không |
Loại 2: tỉa da động vật không bao phủ, vết trầy xước nhẹ hay trầy xước da không chảy máu | Xử trí vết thương tại chỗ và chủng ngừa vaccin |
Loại 3:vết cắn hay xước xuyên qua da đơn lẽ hay nhiều chỗ, lướt qua chỗ da bị tổn thương, màng nhầy bị ô nhiễm tiếp xúc với nước bọt qua liếm , tiếp xúc với dơi | Chủng ngừa vaccin tức thì và sử dụng immuoglobulin, xử trí vết thương tại chỗ |
Tất cả phơi nhiễm loại 2 và loại 3 được đánh giá như là mang một nguy cơ phát triển bệnh dại đòi hỏi PEP. Nguy cơ này gia tăng nếu vết cắn của động vật có vú được xem như là ổ chứa dại hay các loài vector, động vật bị ốm hay có hành vi bất thường. một vết thương hay màng nhầy bị ô nhiễm bởinước bọt của động vật, động vật vô cớ cắn người và động vật chưa được chủng ngừa. Ở các quốc gia đang phát triển, tình trạng chủng ngừa cho các động vật nghi ngờ đơn lẽ không được cân nhắc khi quyết định có hay không sử dụng PEP.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới
Ít nhất 3 thập kỷ ,WHO đã chiến đấu để phá vỡ chu kỳ quên lãng ảnh hưởng việc phòng và chống bệnh dại, đặc biệt ở các quốc gia thu nhập thấp và trung bình thông qua sự ủng hộ, điều tra và thực hiện các nghiên cứu về sử dụng các công cụ mới. WHO tiếp tục thúc đẩy việc phòng chống bệnh dại ở người thông qua loại trừ bệnh dại ở chó cũng như sử dụng rộng rãi PEP bằng đường trong da để làm giảm thể tích và do đó làm giảm chi phí vaccin nuôi cấy tế bào từ 60 % đến 80%. WHO hỗ trợ các đích cho việc loại trừ bệnh dại ở người và chó ở tất cả các quốc gia Mỹ Latinh vào năm 2015 và bệnh dại ở người được lây truyền bởi chó ở Đông Nam Á vào năm 2020. Ở vùng Đông Nam Á một kế hoạch 5 năm (2012-2016) nhằm mục đích giảm một nữa số chết do bệnh dại ước tính hiện nay ở các quốc gia lưu hành.