Các nghiên cứu đầy đủ gần đây bởi các nhà nghiên cứu từ các đối tác Châu Á về nghiên cứu các bệnh nhiễm khuẩn mới nổi (APEIR) phát triển một loạt thông điệp đến các nhà làm chính sách, điều này là thích hợp cao độ đối với vụ dịch hiện nay.
Các ca nhiễm cúm A H7N9 ở người gần đây chứng minh tầm quan trọng trong việc chấp nhận các bài học từ vụ dịch cúm gia cầm H5N1. Các nghiên cứu đầy đủ bởi các nhà nghiên cứu từ các đối tác Châu Á về nghiên cứu các bệnh nhiễm khuẩn mới nổi (APEIR) phát triển một loạt thông điệp đến các nhà làm chính sách, điều này là thích hợp cao độ đối với vụ dịch hiện nay. Các nghiên cứu về mặt kinh tế và các nghiên cứu diện nhỏ về các ngườisản xuất đã chứng minh rằng các nhà sản xuất này bị đánh mạnh bởi cúm gia cầm làm cho họ trở nên cực khổ. Giáo sư Liu Wenjiun, Viện vi sinh vật thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc nói "Với cúm A H7N9 chúng tađã thấy một sự giảm rõ rệtnhu cầu về gia cầm và điều này có thể có ảnh hưởng lớn đến nghành chăn nuôi của những người nghèo sống ở nông thôn, những người phụ thuộc một phần vào việc bán gà như là một nguồn thu nhập. Trong khi điều cần thiết là đóng chợ gia cầm bị nhiễm bệnh để bảo vệ sức khỏe công cộng thì các ảnh hưởng theo sau đối với người sản xuất và các mối liên quan khác với nền công nghiệp gia cầm là to lớn và cần tìm kiếm các giải pháp thay thế để hỗ trợ các nhà sản xuất này". Các nghiên cứu về mặt kinh tế khuyến cáo rằng sự hỗ trợ từ chính phủ là cần thiết để xây dựng các cơ sở giết mổ và bảo quản đông lạnh để giúp điều chỉnh giá cả thị trường bấp bênh." Hiện nay nhiều nông dân không thể bán gia cầm của họ và các giải pháp cần thiết được tìm thấy để hỗ trợ những nông dân này khi thị trường gặp khó khăn xảy ra". "Trong những vùng bị ảnh hưởng bởi cúm A H7N9 , bao phủ ở các tỉnh Jiangsu (Giang Tô), Zheijang (Chiết giang) và Anhui ( An Huy) và các vùng phụ cận, sự hỗ trợ để thực hiện chuyển đổi công việc phải được tính đến cho các hộ gia đình chăn nuôi gia cầm để các hộ gia đình để bù đắp về các thiệt hại từ chăn nuôi gia cầm và duy trì cuộc sống của họ. Các nghiên cứu về H5N1 thấy rằng mặc dùđã có sự chuyển đổicác chính sách của chính phủ hướng đên sự hỗ trợ nền công nghiệp gia cầm trên diện rộng thì sự hỗ trợ diện sản xuất nhỏ vẫn cần thiết bởi vì đó lànguồn thu nhập chính đối với phụ nữ và các người nghèo ở nông thôn".
Đội tổ chức các nghiên cứu về tính hiệu quả của các biện pháp phòng chống H5N1 thấy rằng có nhiều khiếm khuyết đáng kể trong thực hành an toàn sinh học ở hầu hết các nông trại được nghiên cứu, đặc biệt nhưng không chỉ là trang trại sản xuất nhỏ. Các biện pháp đối với các nông trại này sẽ không thể hiệu quả để phòng chống cúm A H7N9 từ việc đi vào nông trại và nhiễm cúm gia cầm. Điều này nghĩa là đối với các vùng mà cúm A H7N9 đến nay chưa bị nhiễm bệnh thì các biện pháp an toàn sinh học trang trại cần thiết được tăng cuờng như khuyến cáo bởi Tổ chức lương nông thế giới (FAO) nhưng các biện pháp được đề nghị và chấp nhận có thể thực hiện và phù hợp với các hệ thống sản xuất hiện có.
Các nghiên cứu khác nhau cũng thấy rằng với việc phòng chống H5N1, việc lựa chọn các vùng rộng rãi mà trong đó tất cả gia cầm ở trong một vùng rộng lớn xung quanh được biết là có bị nhiễm nhiều đựoc lựa chọn có rất nhiều ảnh hưởng trầm trọng đến kế sinh nhai bởi vì mức độ phá hủy và khó khăn mà nó gây ra cho người sản xuất và ngườinghèo ở nông thôn. Cũng không có bằng chứng để đề nghị rằng nó có hiệu quả hơn sự loại bỏ hạn chế, cùng với giám sát để phát hiện các chùm nhiễm bệnh khác. Sự bồi thường cung cấp một phần sự mất mát nhưng không bao phủ sự mất mát về kinh doanh hay sự vay mượn mà các nông dân thực hiện nếu họ không được khuyến khích buôn bán với khoảng thời gian giản ra. Các nghiên cứu về chim hoang dại được thực hiện như là một phần của APEIR chứng minh tầm quan trọng của việc giám sát chim hoang dại nhằm mô tả các đặc trưng của virus cúm mang bởi các loài chim này. Thông tin về gen đạt được cho đến nay về cúm A H7N9 đề nghị rằng các thành tố H và N của virus này có lẽ từ các loài chim hoang dại và cũng có khả năng từ gia cầm. Cũng có chứng cứ từ các nghiên cứu về gen rằng hệ thống giám sát đã không phát hiện mối liên quan tương đối chặt chẽ về nguồn gốc vật chủ của những virus này và cần thiết được tăng cường. Các nghiên cứu bởi APEIR phát hiện một số phân typ vius cúm bổ sung khác hơn cúm H5N1, và thông tin này giúp hiểu biết hơn về sự lan truyền của các chủng cúm khác bởi các chim hoang dại. Mặc dầu không có H7N9 được phát hiện, virus được tìm thấy là có đặc trưng đầy đủ và chuỗi trình tự gen đã tải lên các dữ liệu gen thêm vào bể dữ liệu sẵn có cho việc so sánh bởi các nhà khoa học cố gắng để tách ra nguồn gốc của virus mới này.
APEIR khuyến cáo rằng tất cả chuỗi trình tự gen của virus cúm phải được chia sẽ sớm khi chúng sẵn có và điều này đã được thực hiện bởi các nhà khoa học Trung quốc với chủng H7N9. Các nhà nghiên cứu của APERI bao gồm giáo sư Lei Fumin của viện động vật học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung quốc, hiện nay đang đièu tra vai trò của chim hoang dại trong việc lan truyền cúm A H7N9. Giáo sư Lei Fumin nói: "Chúng ta đã thấy các đề nghi rằng virus này có thể lan truyền rộng rãi trong các loài chim di cư và gia cầm.và điều quan trọng là đánh giá rất có khả năng.của điều này thông qua các nghiên cứu khoa học về chim hoang dại bởi vì chúng bay từ phía bắc xuyên suốt Trung quốc tới các vùng đất đẻ của nó vào mùa hè". Các nhà làm chính sách Trung quốc một lần nữa đối mặt với một sự quyết định có sử dụng hay không sử dụng vaccin để ngăn chặn bệnh này nhằm làm giảm khả năng xảy ra phơi nhiễm với người đối với chủng cúm A H7N9. APERI nghiên cứu về phát triển chính sách chứng tỏ tầm quan trọng của các bằng chứng mạnh mẽ về các điều đơn giản và các khó khăn không ngờ tới của việc chủng ngừa vaccin vì thế những điều này có thể làm tăng thêm sức nặng khoa học mà không cần tham khảo bên ngoài. Nghiên cứu về chính sách cúm gia cầm cũng thấy rằng chính sách về lĩnh vực nông nghiệp phải kết dính với chính sách về lĩnh vực y tế và phải nhằm mục đích làm giảm nguy cơ sự khẩn cấp về tác nhân gây đại dịch ở người. Dr Pongpisut Jongudomsuk, Giám đốc viện nghiên cứu về hệ thống y tế Thái lan và Chủ tịch ủy ban thuờng trực APERI nói:"APERI là một mạng lưới nghiên cứu EIDs dựa vào sự thực duy nhất của Châu Á bao gồm trên 30 viện đối tác từ 6 quốc gia ( Cambodia, Trung quốc, Indonesia, Lào, Thái lan và Việt nam. Chúng tôi đã thiết lập hệ thống đối tác và mạng lưới trên toàn cầu, vùng vàcấp độ quốc gia". Nhiều bài học từ các nghiên cứu đuợc tổ chức bởi các nhà nghiên cứu của APERI và bây giờ chúng tôi có cơ hội để chấp nhận các bài học vì thế mà làm giảm tối thiểu các ảnh hưởng đến sinh kế và ngăn ngừa sự lây lan bệnh bởi chủng cúm A H7N9. APERI ở tư thế giữ một vai trò quan trọng trong điều tra và chống lại cúm H7N9.