Dân tộc thiểu số Ê Đê là dân tộc có nguồn gốc từ nhóm tộc người Mã Lai (Malays) từ các hải đảo Thái Bình Dương đã có mặt lâu đời ở Đông Dương; truyền thống dân tộc vẫn theo chế độ mẫu hệ, thể hiện đậm nét dấu vết hải đảo của nhóm tộc người nói tiếng Mã Lai (Malays). Các nhóm địa phương bao gồm: Adham, Bih, Blô, Dong Kay, Dong Mak, Ening, Arul, Hwing, Mđhur, Ktul, Kpă, Krung, Dliê, Hruê, Kah, Kdrao, Ktlê, ÊBan...Nhưng không có sự khác biết lớn giữa các nhóm địa phương.
Theo tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dân tộc thiểu số Ê Đê ở Việt Nam có 331.194 người, cư trú tại 59 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố; cư trú tập trung tại tỉnh Đăk Lăk 298.534 người, chiếm tỷ lệ 17,2 % dân số toàn tỉnh và 90,1 % tổng số người Ê Đê tại Việt Nam; tỉnh Phú Yên có 20.905 người, tỉnh Đăk Nông có 5.271 người, tỉnh Khánh Hòa có 3.396 người.
Truyền thuyết của người dân tộc Ê Đê
Người Ê Đê cho rằng vị thần cao nhất của họ là Aê Diê nghĩa là Thượng Đế, trong một cuộc chiến với con Rồng thì Aê Diê đã giết được con Rồng, đốt cháy nó trên đất, sau đó xác của Rồng cháy thành đất màu đỏ, từ đó Aê Diê cho con cái mình sinh sống và làm chủ đất đai màu mỡ đó. Vì vậy người Ê Đê tự gọi mình là Anak Aê Diê, sau này đọc lệch đi là Anak Ê Đê (Người Ê Đê kiêng đọc đúng tên thần linh). Trong bia ký Champa tại Tháp Pô Yang Ana Gar đã ghi chép sự xuất hiện của tộc danh Orang Đêy tại vùng Êa Trang (Nha Trang) từ rất sớm khoảng thế kỷ thứ 8, Orang Đêy biến âm sau này thành Ra Đê, Ra Đêy hay Ê Đê. Trước năm 1975, tại miền Nam Việt Nam người Ê Đê được gọi là Ra Đê. Đối với người Ê Đê họ còn tự gọi cộng đồng họ nữa là Đêgar hay Đêga trong cụm từ Anak Đêgar (Người Con của Núi Rừng). Điều tra hiện nay có 331.194 người dân tộc thiểu số Ê Đê cư trú tập trung ở tỉnh Đăk Lăk, phía nam của tỉnh Gia Lai và miền tây của hai tỉnh Khánh Hòa, Phú Yên của Việt Nam. Tại một số quốc gia khác như Campuchia, Mỹ, Canada và các nước Bắc Âu cũng có một ít người Ê Đê sinh sống, song chưa có số liệu chính thức.
|
ảnh sưu tầm |
Đặc điểm về kinh tế, hôn nhân gia đình
Người Ê Đê làm rẫy là chính, riêng nhóm Bíh làm ruộng nước theo lối cổ sơ, dùng trâu dẫm đất thay cho việc cày, cuốc đất. Ngoài trồng trọt, họ còn chăn nuôi, săn bắn, hái lượm, đánh cá, đan lát, dệt vải... Trên nương rẫy, ngoài cây chính là lúa còn trồng ngô, khoai, bầu, thuốc lá, bí, hành, ớt, bông...
Đặc điểm làm rẫy của người Ê Đê là chế độ luân khoảnh, tức là bên cạnh những khu đất đang canh tác còn có những khu đất để hoang để phục hồi sự màu mỡ. Ngày nay người Ê Đê trồng sản xuất nông sản cây công nghiệp như cà phê, cao su, hồ tiêu, ca cao...
|
Toàn cảnh nhà dài Ê Đê |
Ngoài nghề trồng trọt, người dân tộc Ê Đê còn nuôi trâu, bò, voi... Người dân còn tự làm ra được các đồ dùng đan lát, bát đồng, đồ gỗ, đồ trang sức, đồ gốm...
Trong gia đình người dân tộc Ê Đê, chủ nhà là phụ nữ, theo chế độ mẫu hệ, con cái mang họ mẹ, con trai không được hưởng thừa kế. Đàn ông cư trú trong nhà vợ. Nếu vợ chết và bên nhà vợ không còn ai thay thế theo tục nối dây thì người chồng phải về với chị em gái mình. Khi chết, được đưa về chôn cất bên người thân của gia đình mẹ đẻ. Chỉ con gái mới được thừa kế tài sản, người con gái út được thừa kế nhà tự để thờ cúng ông bà và phải nuôi dưỡng cha mẹ già.
Đặc điểm về văn hóa, nhà cửa, trang phục
Người Ê Đê có kho tàng văn học truyền miệng phong phú như thần thoại, cổ tích, ca dao, tục ngữ; đặc biệt là các Khan (trường ca, sử thi) nổi tiếng với Khan Đam San, Khan Đam Kteh M'lan... Người Ê Đê yêu ca hát, thích tấu nhạc và thường rất có năng khiếu về lĩnh vực này. Nhạc cụ có cồng, chiêng, trống, sáo, khèn, Gôc, Kni, đàn, Đinh Năm, Đinh Tuốc là các loại nhạc cụ phổ biến của người Ê Đê và được nhiều người yêu thích.
Nhà ở của người dân tộc Ê Đê thuộc loại hình nhà dài sàn thấp, thường dài từ 15 đến hơn 100 mét tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Nhà của người Ê Đê có những đặc trưng riêng không giống nhà của các cư dân khác ở Tây Nguyên. Loại nhà của gia đình lớn theo chế độ mẫu hệ có bộ khung kết cấu đơn giản. Kết cấu được xem là đặt trưng của nhà ở người dân tộc Ê Đê là hình thức của cầu thang, cột sàn và cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt. Đặc biệt là ở hai phần, nửa đằng cửa chính gọi là Gah là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà dài, bếp chủ, ghế khách, ghế chủ, ghế dài (Kpan) (tới 20 m), chiêng ché...; nửa còn lại gọi là Ôk, nơi đặt bếp làm chỗ nấu ăn chung và là chỗ ở của các đôi vợ chồng, chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là "trên" chia thành nhiều gian nhỏ; phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp... Mỗi đầu nhà có một sân sàn. Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Muốn vào nhà phải qua sân sàn. Nhà càng khá giả thì sân khách càng rộng, khang trang.
Người dân tộc thiểu số có đầy đủ các thành phần, chủng loại trang phục và phong cách thẩm mỹ khá tiêu biểu cho các dân tộc khu vực Tây Nguyên.Y phục cổ truyền của người dân tộc Ê Đê là màu đen, có điểm những hoa văn sặc sỡ. Đàn bà mặc áo, quấn váy (Ieng). Đàn ông đóng khố (Kpin), mặc áo. Người Ê Đê ưa dùng các đồ trang sức bằng bạc, đồng, hạt cườm. Trước kia, tục cà răng quy định mọi người đều cắt cụt 6 chiếc răng cửa hàm trên, nhưng lớp trẻ ngày nay không còn cà răng nữa.
Người nam thuộc dân tộc Ê Đê thường để tóc ngắn quấn khăn màu đen nhiều vòng trên đầu. Y phục truyền thống gồm áo và khố. Áo có hai loại cơ bản. Loại áo dài trùm mông là loại áo khá tiêu biểu cho người Ê Đê qua trang phục nam, có tay áo dài, thân áo cũng dài trùm mông, có xẻ tà và khoét cổ chui đầu. Trên nền chàm của thân và ống tay áo ở ngực, hai bên bả vai, cửa tay, các đường viền cổ, nơi xẻ tà gấu áo được trang trí và viền vải đỏ, trắng. Đặc biệt là khu giữa ngực áo có mảng sọc ngang trong bố cục hình chữ nhật tạo vẻ đẹp, khỏe, lịch lãm. Loại áo dài quá gối là loại áo dài có khoét cổ, ống tay bình thường không trang trí như loại áo dài trùm mông nói trên... Khố có nhiều loại và được phân biệt ở sự ngắn dài có trang trí hoa văn như thế nào. Đẹp nhất là các loại ktêh, drai, đrêch, piêk, còn các loại bong và băl là loại khố thường. Áo thường ngày ít có hoa văn, bên cạnh các loại áo trên còn có loại áo cộc tay đến khuỷu, hoặc không tay. Áo có giá trị nhất là loại áo Ktêh của những người quyền quý có dải hoa văn "đại bàng dang cánh", ở dọc hai bên nách, gấu áo phía sau lưng có đính hạt cườm. Nam giới cũng mang hoa tai và vòng cổ.
|
Thiếu nhi người dân tộc thiểu số Ê Đê |
Người phụ nữ dân tộc Ê Đê để tóc dài buộc ra sau gáy. Họ mang áo váy trong trang phục thường nhật. Xưa họ để tóc theo kiểu búi tó và đội nón duôn bai. Họ mang đồ trang sức bằng bạc hoặc đồng. Vòng tay thường đeo thành bộ kép, nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ có thể nhận ra người quen, thân. Áo phụ nữ là loại áo ngắn dài tay, khoét cổ (loại cổ thấp hình thuyền) mặc kiểu chui đầu. Thân áo dài đến mông, khi mặc cho ra ngoài váy. Trên nền áo màu chàm thẫm, các bộ phận được trang trí là cổ áo lan sang hai bên bả vai xuống giữa cánh tay, cửa tay áo, gấu áo. Đó là các đường viền kết hợp với các dải hoa văn nhỏ bằng sợi màu đỏ, trắng, vàng. Cái khác của trang phục áo nữ người Ê Đê khác với Gia Rai về phong cách trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay (áo yếm). Váy mặc cùng với áo của phụ nữ Ê Đê là chiếc váy mở (tấm vải rộng làm váy) quấn quanh thân. Cũng trên nền chàm, váy được gia công trang trí các sọc nằm ngang ở mép trên, mép dưới và giữa thân bằng chỉ các màu tương tự như áo. Đồ án trang trí tập trung hơn ở mép trên và dưới thân váy. Có thể đây cũng là phong cách hơi khác với váy của dân tộc Gia Rai. Váy có nhiều loại phân biệt ở các dải hoa văn gia công nhiều hay ít. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêk. Loại bình thường mặc đi làm rẫy là bong. Hiện nay nữ thanh niên thường mặc váy kín.
Đặc điểm về tôn giáo, ngôn ngữ
Phần lớn người Ê Đê theo đạo Tin Lành và đạo Thiên Chúa. Một số ít theo Phật giáo tại các vùng đô thị. Họ thường đọc kinh cầu nguyện tại các nhà riêng của mục sư, hiện tại các nhà thờ Tin Lành vẫn chưa nhiều. Những người theo Công giáo Rôma thì thường đến các nhà nhờ tại địa phương vào ngày chủ nhật. Số còn lại vẫn theo nét tín ngưỡng của cổ truyền, thờ cúng các thần hộ thân cho mình.
Tiếng nói của người Ê Đê thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia (ngữ hệ Nam Ðảo). Tiếng Ê Đê là một ngôn ngữ có quan hệ gần gũi với Tiếng Gia Rai, Chăm, Malaysia, Indonesia, Philippine. Tiếng Ê Đê ngày nay phát triển một âm tiết đơn lập, đây là kết quả của sự ảnh hưởng của tiếng Môn-Khmer.
So với các dân tộc ít người khác tại Việt Nam, người Ê Đê là sắc dân có chữ viết theo bảng chữ cái La Tinh khá sớm, người Ê Đê có chữ viết từ thập niên 1920. Các nhà truyền giáo Tin Lành đã phối hợp với các chuyên viên ngôn ngữ học tại Viện Ngôn ngữ Summer đặt chữ viết cho người Ê Đê để dịch Kinh Thánh cho dân tộc này. Năm 1971, các chuyên viên này phối hợp với Bộ Giáo dục Việt Nam Cộng hòa phát hành sách dạy tiếng Ê Đê. Năm 1979, sách dạy ngữ vựng Ê Đê được xuất bản tại Hoa Kỳ. Kinh thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt phát hành năm 2001. Năm 2006, Nhà xuất bản Tôn giáo của chính phủ Việt Nam, với sự hỗ trợ của United Bible Societies đã phát hành 20 ngàn cuốn Kinh thánh Tân Ước song ngữ Ê Đê-Việt tại Việt Nam. Đây là cuốn sách có số lượng phát hành nhiều nhất trong tiếng Ê Đê từ trước đến nay.