Dân tộc Chu Ru là tên gọi của một trong những dân tộc ít người cư trú chủ yếu tại tỉnh Lâm Đồng, một số ít sinh sống ở tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Gia Lai. Dân tộc Chu Ru thuộc nhóm hệ ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia.
Địa bàn cư trú
Theo Tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 4 năm 1999 của Việt Nam, người dân tộc Chu Ru có 14.978 nhân khẩu với tỷ lệ nam giới là 48,5% và nữ giới là 51,5%. Người dân tộc Chu Ru có mặt tại một số địa phương thuộc tỉnh Lâm Đồng và một số ít ở tỉnh Ninh Thuận và tỉnh Gia Lai.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009,người Chu Ru ở Việt Nam có dân số 19.314 người, cư trú tại 27 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Chu Ru cư trú tập trung tại các tỉnh Lâm Đồng 18.631 người, chiếm tỷ lệ 96,5% tổng số người Chu Ru tại Việt Nam, tỉnh Ninh Thuận 521 người, Thành phố Hồ Chí Minh 58 người.
Về ngôn ngữ và chữ viết
Người dân tộc Chu Ru đa số nói tiếng Chu Ru, một ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia. Tuy nhiên, do cư trú lân cận với người dân tộc Cơ Ho nên một bộ phận người dân tộc Chu Ru cũng nói tiếng Cơ Ho, thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.
Trước đây người dân tộc Chu Ru không có chữ viết cho tiếng nói của mình. Thời Pháp thuộc đã lưu hành một loại chữ viết do phiên âm tiếng nói của dân tộc này. Do địa bàn cư trú tương đối thuận tiện cho việc tiếp xúc với các dân tộc ở vùng đồng bằng như người dân tộc Kinh, người dân tộc Chăm nên có nhiều người dân tộc Chu Ru biết nói tiếng phổ thông và viết chữ quốc ngữ, nhất là thế hệ trẻ.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, vùng người dân tộc Chu Ru là một trong những vùng có phong trào thanh toán nạn mù chữ sớm nhất trong toàn tỉnh Lâm Đồng. Hiện nay, người Chu Ru đã trở thành tên gọi chính thức của dân tộc này. Chu Ru còn được gọi là Chru có nghĩa là "xâm đất", ám chỉ những người mới di cư đến vùng đất mới. Ngoài ra, họ còn được các dân tộc lân cận gọi bằng những tên như Ca-do, Kơ-du, P'nông-Chăm. Rất có thể, người dân tộc Chu Ru và người dân tộc Chăm xưa kia có chung một nguồn gốc.
Ngôn ngữ người Chu Ru và người Chăm đều thuộc nhóm ngôn ngữ Mã Lai-Polynesia. Nếu so sánh về mặt ngữ pháp, ngữ âm và những từ vựng cơ bản của hai ngôn ngữ đó, người ta thấy mối quan hệ hết sức gần gũi nếu so sánh tỷ lệ quan hệ ngôn ngữ Chu Ru và Chăm. Về nhân chủng học, người Chu Ru và người Chăm cũng có những đặc điểm chung.
Về tín ngưỡng cổ truyền và văn học dân gian, người ta càng thấy rõ hơn mối quan hệ thân thuộc đó. Theo số đông các người già của người dân tộc Chu Ru ở tỉnh Lâm Đồng, trước đây họ vốn là một nhóm con cháu của người dân tộc Chăm đã từng sinh sống ở vùng duyên hải Trung Bộ. Vì lý do lịch sử nào đó khiến cho một số người phải rời bỏ quê hương để đi tìm nơi đất mới. Những người di dân với dấu tích ấy nên đã tự đặt cho mình tên gọi Chu Ru. Chính họ là những người đã mang theo nghề làm ruộng và làm gốm đến những địa bàn cư trú chủ yếu hiện nay của họ thuộc huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng. Tại những nơi này, vẫn lưu tồn nhiều địa danh chứng tỏ điều đó.
Về đặc điểm kinh tế
Người Chu Ru là một dân tộc đã định canh, định cư và làm ruộng từ lâu đời. Nghề trồng trọt chiếm vị trí hàng đầu trong đời sống kinh tế và cây lúa là cây lương thực chủ yếu. Ngoài ra họ còn trồng ngô, khoai, sắn và một số loại rau, đậu trên rẫy hoặc trong vườn.
Ruộng (hama) trước đây thường chỉ làm một mùa, và có thể tạm chia làm hai loại là ruộng sâu hoặc ruộng sình (hama-gluh) và ruộng khô (hanha-khác). Do tính chất và điều kiện địa lý của từng loại ruộng ở từng vùng có những đặc điểm khác nhau nên kỹ thuật canh tác cũng có những nét riêng.
Đối với ruộng bình thường được dùng phương pháp "thủy nậu". Người ta cho trâu quần để đất thật nhuyễn rồi gieo hạt. Đối với các loại ruộng đất khác thì sau khi thu hoạch một thời gian, người ta tiến hành cày vỡ, bừa, cày trở, bừa lần thứ hai và kết hợp với việc bang đất cho bằng, rồi xạ giống... Nông cụ cổ truyền còn rất thô sơ như cày, bừa, cái bang đất đều bằng gỗ. Đến nay, họ đã có lưỡi cày bằng sắt và do 2 con trâu kéo. Tuy nhiên lối canh tác cổ truyền của người Chu Ru cũng có nhiều kinh nghiệm, nhất là về việc làm thủy lợi nhỏ và điều tiết lượng nước trong từng thời kỳ sinh trưởng của cây lúa...
Người Chu Ru thường làm những mương phai và những đê đập để dẫn nước từ sông, suối vào ruộng. Việc làm thủy lợi thường phải huy động nhân lực cả dân làng nên mỗi làng (plơi, plei) thường có một người chuyên trách, gọi là "Trưởng thủy" (pô Ea nay bơ nuar bơ nữ).
Để phụ vào một vụ lúa nước, người Chu Ru làm thêm nương rẫy và vườn. Tuy diện tích không nhiều song nhà nào cũng có trên rẫy (apuh) trồng xen các loại cây lương thực và thực phẩm khác như ngô, khoai, lạc, bí đỏ và một số loại rau...
Người Chu Ru cũng chăn nuôi trâu, bò, heo, dê, ngựa và nhiều loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngỗng... Trâu, bò thường dùng làm sức kéo trong nông nghiệp, ngựa dùng làm phương tiện chuyên chở cho những chuyến đi xa để trao đổi hàng hóa với các dân tộc láng giềng. Trong các loại gia súc, trâu được nuôi nhiều hơn cả. Ngoài việc dùng làm sức kéo, trâu còn dùng trong các lễ nghi, tín ngưỡng cổ truyền, cưới xin hoặc dùng làm vật ngang giá để mua bán, trao đổi...
Kết hợp với kinh tế sản xuất, săn bắn (amal) là một hoạt động thường xuyên trong đời sống người Chu Ru tuy nó không còn là một nguồn sống quan trọng. Săn bắn thường kết hợp chặt chẽ với khâu sản xuất nông nghiệp để chống các loại thú rừng phá hoại mùa màng. Nó không những là một nguồn lợi, nguồn cung cấp thực phẩm mà còn là một thú vui của những thành viên nam giới trong làng. Tuy chưa có những người chuyên sống về nghề săn bắn nhưng người đàn ông nào cũng biết đi săn, gia đình nào cũng có lao (tă) và nỏ (sơ ráo). Họ cũng là những người có nhiều kinh nghiệm làm tên thuốc độc. Trước đây, nhiều làng thường tổ chức săn bắn tập thể. Cùng với việc săn bắn, họ còn làm nhiều loại bẫy thú khác nhau để bắt cầy, cáo, gà rừng...
Đánh cá cũng là một nghề phụ gia đình tương đối phổ biến ở những khu vực ven sông Đa Nhim và các khe suối khác trong rừng. Hầu như các thành viên nam giới trong làng đều biết đánh bắt cá. Họ còn lấy một loại vỏ cây, lá cây có độc tố để thuốc cá. Phương pháp này tuy bắt được nhiều cá nhưng ảnh hưởng không tốt đến môi trường sống của sinh vật và nguồn tôm cá trong tương lai.
Hái lượm vẫn còn là một nguồn cung cấp thức ăn hàng ngày cho người Chu Ru. Người ta thường hái các loại rau rừng, măng và một số hoa quả dại, đào các loại thân củ như củ chụp, củ mài để ăn thay cơm hoặc kiếm các loại lâm sản như mộc nhĩ, nấm hương, mật ong... Những thứ đó, một phần để dùng nhưng chủ yếu là bán hoặc trao đổi với các dân tộc khác.
Những sản phẩm thủ công chủ yếu như đồ dùng gia đình bằng mây tre và các công cụ tự rèn như liềm, cuốc, nạo cỏ phục vụ cho sản xuất và đời sống hàng ngày. Đặc biệt có nghề làm gốm, một nghề thủ công truyền thống của người Chu Ru. Những làng như Krang gõ, Krang chớ... là những làng nổi tiếng về nghề gốm cổ truyền. Tuy nhiên, kỹ thuật đang còn rất thô sơ. Tất cả mọi người đều có thể tham gia vào công việc làm gốm ở nhiều khâu như đào đất, nhào đất... Riêng việc nặn, nung, sửa gốm... là những khâu cần đến sự khéo léo bằng chân tay và do người phụ nữ đảm nhiệm.
Nghề dệt ở đây không phát triển, vì vậy hầu hết mọi bộ đồ trong y phục cổ truyền như áo, khố, váy... đều phải mua hoặc trao đổi với các dân tộc láng giềng như người dân tộc Chăm, Cơ Ho, Mạ...
Nhìn chung, nền kinh tế cổ truyền của người Chu ru là một nền kinh tế mang tính chất tự cấp, tự túc, bó hẹp trong từng gia đình, dòng họ và làng buôn truyền thống.
Về văn hóa, xã hội
Xã hội cổ truyền của người dân tộc Chu ru dựa trên cơ sở làng (plei). Phạm vi của làng là một khoảng đất rộng ba, bốn kilômét vuông gồm đất thổ cư, đất trồng trọt, các công trình thủy lợi cùng với rừng núi, sông suối... Chúng có ranh giới tự nhiên như con sông, dòng suối hoặc quả đồi, do các chủ làng (pô plei nay pô plơi) quy ước với nhau và được lưu truyền qua nhiều thế hệ.
Rừng, núi, sông, suối thuộc quyền sở hữu công cộng của làng, ai cũng có quyền săn bắn, đánh cá trong khu vực đó. Nhưng đất thổ cư, ruộng đất ở đây đã dần dần chuyển thành tài sản tư hữu của từng dòng họ, gia đình lớn hay gia đình nhỏ. Từ lâu đã có một thể thức cổ truyền về việc chuyển nhượng quyền sở hữu ruộng đất thay cho khế ước hay giấy tờ hợp pháp. Những người dân làng thuộc hai thế hệ được họp tại thửa ruộng bán mà thành phần quan trọng là trẻ nhỏ vì chúng là những nhân chứng trực tiếp của việc chuyển nhượng đất đai đó trong tương lai. Người đứng ra mua đất phải chịu mọi phí tổn của buổi lễ. Chi phí đó gồm các khoản chính như rượu cần để thiết đãi người lớn và thịt gà làm quà cho trẻ em. Người mua đất còn phải cung cấp một con vật để tế lễ sau khi đã trả tiền. Việc chi trả theo luật lệ cổ truyền ở đây là trâu, bò, chiêng, ché... đó là những vật ngang giá. Một tảng đá tương đối lớn phết máu của con vật hiến sinh được chôn ngay tại bờ ruộng đã bán...
Về mặt xã hội, làng người dân tộc Chu Ru thường là một đơn vị cư trú láng giềng. Một làng bao gồm nhiều dòng họ hoặc gồm cả những người khác tộc cùng cư trú. Chủ làng do tất cả thành viên lựa chọn trong số những người đàn ông cao tuổi nhất của làng (các tha plơi). Tuy chưa phải là phổ thông đầu phiếu nhưng là người được đông đảo thành viên trong làng tín nhiệm. Ngoài tiêu chuẩn cao tuổi nhất, người này còn phải là người có kinh nghiệm trong sản xuất, chiến đấu cũng như hiểu biết về lịch sử, phong tục của làng và dân tộc mình. Chủ làng là người đóng vai trò hướng dẫn dân làng trong tổ chức sản xuất và đời sống; có khả năng cùng với các già làng bàn bạc và giải quyết mọi công việc đối nội, đối ngoại của làng. Về quyền lợi, chủ làng cũng như mọi người khác phải lao động để tự nuôi sống bản thân và gia đình mình, nhưng về mặt tinh thần, chủ làng là người có uy tín tuyệt đối và làm chủ các lễ nghi của cộng đồng làng.
Thầy cúng (yuh, pơ dô hoặc gru) là linh hồn của các buổi tế lễ chung của cộng đồng làng cũng như các gia đình lớn và dòng họ. Ngày thường, thầy cúng vẫn phải lao động như mọi người, chỉ khi nào có việc cúng kiếng, thầy cúng mới được dân làng mời đến. Sau mỗi buổi lễ, thầy cúng thường được biếu một con gà, ché rượu với ngụ ý là đền ơn...
Mỗi làng thường có một người phụ trách công việc thủy lợi và hai người giúp việc. Trưởng thủy cũng do tập thể các thành viên trong làng bầu ra. Đây là người có khả năng về thủy lợi và có đức tính công bằng. Trưởng thủy có nhiệm vụ phân phối đều lượng nước từ các mương, máng công cộng đến từng thửa ruộng của các gia đình. Khi cần thiết, Trưởng thủy có thể đề nghi với chủ làng huy động nhân lực để tu bổ các công trình thủy lợi chung trước mùa cày cấy.
Để trông nom việc sinh sản, mỗi làng Chu Ru thường có một hoặc hai người phụ nữ giàu kinh nghiệm giúp đỡ sản phụ trong những ngày sinh nở gọi là mọ boại hay mọ luạy. Tuy không do dân làng bầu ra nhưng bà đỡ được dân làng tín nhiệm. Sau mỗi lần sinh đẻ, gia chủ thường biếu bà đỡ một chút quà nhỏ để đền đáp công ơn.
Như vậy, chủ làng, thầy cúng, bà đỡ, già làng là những người có vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, kinh tế và đời sống tín ngưỡng của cộng đồng làng. Họ hợp thành tổ chức tự quản, một tổ chức chính trị, xã hội cao nhất mà người Chu Ru đã đạt đến. Làng hầu như là một đơn vị kinh tế tự cấp, tự túc tương đối độc lập.
Trong xã hội đã có một sự phân hóa thành hai tầng lớp giàu (mdagơnơp), nghèo (rơbah). Tầng lớp giàu được biểu hiện bằng những đồ vật mang tính chất phô trương như ché (sơtôk), ngà voi (bla), trống (sơgơn), chiêng (sar), sừng tê giác (bơsan)... chứ không phải là tư liệu sản xuất. Nguyên nhân đưa đến sự giàu có chủ yếu là do sức lao động làm ra, chứ không phải do bóc lột.
Làng là những cộng đồng huyết thống như dòng họ, gia đình lớn và gia đình nhỏ. Trong xã hội cổ truyền của người Chu Ru, gia đình lớn còn mang nhiều tàn dư chế độ mẫu hệ mà biểu hiện tập trung ở vai trò người vợ, người cậu (miăh) và quyền thừa kế tài sản thuộc về các người con gái. Gia đình lớn thường có từ ba đến bốn thế hệ cùng chung sống dưới một mái nhà. Tổ chức gia đình lớn dựa trên cơ sở cộng đồng kinh tế xã hội và tư tưởng. Những người trong một nhà có ruộng đất, trâu bò, nông cụ chung. Họ cùng sản xuất và hưởng chung sản phẩm. Sản phẩm lao động của gia đình lớn (sáng tơ prông) được nhập vào một kho và họ ăn chung một nồi lớn (gõ prông). Đứng đầu gia đình lớn là một người đàn ông cao tuổi nhất, thông thường là chồng người đàn bà thuộc thế hệ trên. Trong thực tế, ông chủ gia đình lớn là người thừa hành những ý kiến của người vợ và những người anh em trai của người vợ (miăk). Tuy sống trong gia đình phía vợ song người cậu vẫn đóng vai trò quyết định trong những công việc hệ trọng trong gia đình em gái như phân chia tài sản, quyết định việc hôn nhân của các cháu, mua bán, chuyển nhượng ruộng đất và mọi tài sản khác.
Người Chu Ru vốn cư trú trên một lãnh thổ tương đối ổn định nên từ trước đến nay thường có quan hệ hôn nhân trong nội bộ dân tộc. Tuy nhiên, họ vẫn có ít nhiều quan hệ hôn nhân với người Cơ Ho và người Ra Glai láng giềng. Chế độ hôn nhân của người Chu Ru là một vợ một chồng, cư trú bên nhà vợ và người phụ nữ đóng vai trò chủ động trong hôn nhân. Tuy chế độ một vợ, một chồng đã được xác lập nhưng hiện tượng đa thê vẫn có thể xảy ra, thông thường ở những gia đình giàu có.
Người dân tộc Chu Ru còn lưu giữ nhiều phong tục tập quán như việc thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng đa thần. Lễ cúng tổ tiên (pơ khi mô cay) ở đây khác hẳn với lễ cúng tổ tiên của người dân tộc Kinh. Việc hành lễ không có ngày tháng nào nhất định. Có thể hai, ba năm hay hai, ba mươi năm mới cúng một lần, tùy theo hoàn cảnh kinh tế của mỗi gia đình, mỗi dòng họ. Trong nhà người Chu Ru cũng không có bàn thờ hay bài vị. Họ chỉ lập bàn thờ và tiến hành nghi lễ vào một dịp nào đó ngoài nghĩa địa (kốt a tâu).
Việc tiến hành các nghi lễ nông nghiệp cổ truyền thường được thực hiện như cúng thần đập nước (Bơ mung), thần mương nước (Rơ bông), thần lúa khi gieo hạt (Mơ nhum tô ốt đoồng hay khâu doông), ăn mừng lúa mới (ngay yang boong ko pa tay), cúng sau mùa gặt (p'lei đây ru). Đáng chú ý nhất, là lễ cúng thần Bơ mung. Trong mỗi vùng cư trú của người Chu ru, có một nơi dành riêng để thờ cúng vị thần này. Hàng năm, khoảng tháng hai âm lịch, tất cả mọi người trong làng đều đến đấy làm lễ cúng. Dân làng thường cúng bằng dê, còn chủ làng thường phải cúng bằng ngựa. Tục truyền là vị thần này ưa cưỡi ngựa. Con ngựa cúng thần cũng phải thắng yên cương và phủ lễ phục.
Cũng vào tháng hai hàng năm, người Chu Ru còn cúng Yang Wer. Đó là một cây cổ thụ gần làng và được coi là một nơi ngự trị của một vị thần có nhiều quyền phép. Họ thường làm những hình nộm như đầu voi, đầu cọp, đầu dê, đầu trâu... bằng gỗ hoặc bằng củ chuối với đồ ăn, thức uống mang tới gốc cây Yang Wer để cúng. Cúng xong, họ đặt một phần đồ cúng lên võng, rồi theo đường chính khiêng đến một nơi cách gốc cây Yang Wer chừng l00 mét rồi từ từ hạ võng xuống, bày đồ ăn ra vệ đường với ngụ ý tiễn Yang Wer đi chơi. Sau đó, tất cả mọi người tham gia hành lễ trở lại gốc cây cùng ăn uống vui vẻ. Trước khi ra về, mỗi gia đình hái một nhánh cây cắm trước cửa nhà. Tiếp đó là cả làng kiêng cữ trong 15 ngày, không được ai ra vào làng.
Ngoài tín ngưỡng truyền thống kể trên, hiện nay đạo Thiên Chúa Giáo và đạo Tin Lành đang phát triển sâu rộng trong vùng người dân tộc Chu Ru ở địa phương.
Người Chu Ru có một vốn ca dao, tục ngữ khá phong phú; trong đó nổi bật là những câu ca tụng chế độ mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong xã hội cổ truyền. Nhiều truyện cổ phản ánh cuộc đấu tranh bất khuất của người lao động với thiên nhiên và xã hội để dành lấy cuộc sống hạnh phúc. Người dân tộc Chu Ru còn lưu truyền một số trường ca mà các già làng thường kể bên bếp lửa sàn cho con cháu nghe, suốt đêm này qua đêm khác...
Kho tàng văn học nghệ thuật dân gian của người dân tộc Chu Ru không chỉ có giá trị về mặt văn học nghệ thuật, mà còn là một nguồn tư liệu lịch sử quý giá.
Về nhạc cụ, ngoài trống, kèn (rơkel), đồng la (sar)... còn có r'tông, kwao, tenia, là những nhạc cụ đặc sắc của người dân tộc Chu ru. Trong những ngày vui, họ thường tấu nhạc với điệu Tam-ga, một vũ điệu điêu luyện mang tính cộng đồng, hầu như người nào cũng biết và ưa thích.
Người dân tộc Chu Ru tin rằng mọi bệnh tật đều do thần linh (Yang) gây ra. Khi có người lâm bệnh, họ mời thầy cúng đến cúng thần và trị bệnh bằng ma thuật kết hợp kinh nghiệm y học cổ truyền. Các vị lang y của người Chu ru cũng chế được một số loại thuốc phòng bệnh bằng rễ cây. Đến mùa bệnh đậu, trẻ em thường được uống các loại thuốc phòng bệnh cổ truyền đó. Theo người dân tộc Chu Ru thì hầu hết con cái của các lang y trong vùng ít khi bị mắc bệnh này...
Bên cạnh một số phong tục tập quán lạc hậu như dùng bùa chú, cúng bái để trị bệnh; người dân tộc Chu Ru hái lá, vỏ, quả của một số cây làm những vị thuốc nam trong dân gian để chữa bệnh có công hiệu theo y học cổ truyền.