Người dân tộc Xơ Đăng hay Xê Đăng còn có tên gọi khác là Xơ Đeng, Ca Dong, Cà Dong, Tơ Dra, H’Đang, Mơ Nâm, Hà Lăng, Ka Râng, Bri La Teng, Con Lan. Đây là một trong số những dân tộc thiểu số ở Việt Nam.
Nhóm ngôn ngữ, dân số và địa bàn cư trú
Người dân tộc thiểu số Xơ Đăng thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer. Cư trú tập trung ở tỉnh Kon Tum, một số ít ở miền núi của tỉnh Quảng Ngãi và tỉnh Quảng Nam. Người Xơ Đăng có quan hệ gần gũi với người Giẻ-triêng, người Co, người H’Rê và người Ba Na.
Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009,người Xơ Đăng ở Việt Nam có dân số 169.501 người, có mặt tại 41 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Xơ Đăng cư trú tập trung chủ yếu tại tỉnh Kon Tum 104.759 người, chiếm tỷ lệ 24,4 % dân số toàn tỉnh và 61,8 % tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam; tỉnh Quảng Nam 37.900 người, chiếm 22,4 % tổng số người Xơ Đăng tại Việt Nam, tỉnh Quảng Ngãi 17.713 người, tỉnh Đăk Lăk 8.041 người, tỉnh Gia Lai 705 người...
Đặc điểm kinh tế, tổ chức cộng đồng
Người Xơ Đăng làm nương rẫy là chính. Nhóm Mơ Nâm làm ruộng nước nhưng không cày bừa mà lại dùng sức trâu, sức người để giẫm nát đất. Họ chăn nuôi gia súc, gia cầm, săn bắn, hái lượm, đánh bắt cá, đan lát, dệt, rèn. Nhóm Tơ Dra có nghề rèn từ quặng sắt rất phát triển và nổi tiếng.
Mỗi làng Xơ Đăng có nhà rông, có bãi mộ chôn người chết... Nhà cửa của dân làng quây quần bên nhau, mọi người gắn bó giúp đỡ nhau. Ông "già làng" được trọng nể nhất, là người điều hành mọi sinh hoạt chung trong làng và đại diện của dân làng.
Về hôn nhân gia đình, văn hoá và trang phục
Tên của người Xơ Đăng không có họ kèm theo nhưng có từ chỉ định giới tính như nam là A, nữ là Y; ví dụ như là A Nhong là tên của nam giới, Y Hên là tên của nữ giới. Trai gái lớn lên, sau khi đã cưa răng theo phong tục, ngày nay ít người còn theo phong tục này sẽ được tìm hiểu, yêu nhau. Lễ cưới xin đơn giản. Sau lễ cưới, đôi vợ chồng ở luân chuyển với từng gia đình mỗi bên ít năm, rất ít trường hợp ở hẳn một bên.
Sinh hoạt văn hoá trong số các lễ cúng, lễ hội truyền thống của người Xơ Đăng, lễ đâm trâu được tổ chức long trọng nhất, đông vui nhất. Người Xơ Đăng thích hát múa, tấu chiêng cồng, chơi đàn, kể chuyện cổ. Đàn ông không chỉ có tinh thần thượng võ, mà còn tài nghệ trong kiến trúc, điêu khắc và hội họa, tạo nên những sản phẩm tiêu biểu, đó là ngôi nhà rông và cây nêu trong lễ đâm trâu.
Mỗi làng người Xơ Đăng đều có nhà rông, nóc và mái được tạo dáng như cánh buồm lớn hoặc lưỡi rìu khổng lồ ngửa lên trời. Có hình chim chèo bẻo hay hình sừng thú chót vót ở hai đầu đốc. Nhà rông được dân làng tạo dựng nên hoàn toàn bằng thảo mộc có sẵn ở địa phương. Kỹ thuật xây dựng chỉ là lắp ghép và chằng buộc, không hề dùng đến đinh sắt, dây thép... Nhà rông thực sự là công trình kiến trúc, một sản phẩm văn hóa, là trụ sở và câu lạc bộ trong làng của người Xơ Đăng.
Người Xơ Đăng có sự đối xử bình đẳng giữa nam và nữ, không phân biệt giữa con riêng và con chung, con đẻ và con nuôi, con của mình và con của anh em họ. Quan hệ làng bản khá đoàn kết, có tục kết nghĩa với người cùng tuổi hoặc cùng tên. Con cháu cùng họ không được phép kết hôn với nhau.
Trang phục của người dân tộc thiếu số Xơ Đăng còn ở trình độ phát triển chậm và đây cũng là nét chung của một số dân tộc khác trong khu vực Trường Sơn-Tây Nguyên. Trang phục không có đặc điểm cá tính và điển hình cho phong cách kỹ thuật và mỹ thuật.