Người dân tộc thiểu số Cơ Tu, còn có các tên gọi khác như Ca Tu, Ka Tu, Gao, Hạ, Phương, Ca Tang. Đây là một dân tộc nói tiếng ngôn ngữ thuộc ngữ tộc Môn-Khmer. Dân tộc này có khoảng 76.200 người sinh sống chủ yếu tại hai tỉnh Thừa Thiên Huế và Quảng Nam. Ngoài ra còn có một số sống ở các tỉnh Xalavan, Sêkông, Champasak thuộc nước CHDCND Lào.
Dân số và địa bàn cư trú
Tại Việt Nam, theo điều tra dân số năm 1999 thì dân tộc Cơ Tu có dân số khoảng 50.458 người, cư trú chủ yếu trên dãy núi Trường Sơn, thuộc các huyện Đông Giang, Tây Giang, tỉnh Quảng Nam và các huyện A Lưới, Nam Đông, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Theo số liệu tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Cơ Tu ở Việt Nam có dân số 61.588 người, cư trú tại 38 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố của nước ta. Người Cơ Tu cư trú tập trung tại các tỉnh Quảng Nam (45.715 người, chiếm tỷ lệ 74,2 % tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam), tỉnh Thừa Thiên Huế (14.629 người, chiếm tỷ lệ 23,8 % tổng số người Cơ Tu tại Việt Nam). Ngoài ra, Thành phố Đà Nẵng có 950 người, thành phố Hồ Chí Minh cũng có 54 người.
Tại nước CHDCND Lào, theo Ethnologue thì năm 1998 dân tộc Cơ Tu có 14.700 người cư trú chủ yếu tại thượng nguồn sông Sêkông thuộc các tỉnh Sêkông, Salavan, Champasak.
Về kinh tế
Người Cơ Tu thường trồng cây lương thực theo lối phát rừng làm rẫy, thu hái các lâm thổ sản. Công cụ lao động khá nghèo nàn như rìu, dao, gậy chọc lỗ tra hạt. Các hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, dệt, đan lát, hái lượm, đánh cá, săn bắn và trao đổi hàng hóa theo cách vật đổi vật. Trong năm chỉ có đúng 1 mùa làm rẫy, gieo hạt vào tháng 3-4 và thu hoạch nông sản vào tháng 10-11. Cây lương thực chủ yếu là lúa, ngô, sắn.
 |
Người Cơ Tu đi thu hái măng rừng trở về |
Về văn hóa, nhà cửa
Nhà Gươl là loại nhà truyền thống của một số dân tộc ở Tây Nguyên và miền Trung Việt Nam cũng như người dân tộc Cơ Tu. Đặc điểmnhà Gươl của người Cơ Tu gần giống nhà sàn của dân tộc này nhưng được chạm khắc công phu hơn. Phía trên hai đầu nhà Gươl thường được chạm, khắc hình gà trống hoặc hai đầu trâu nhô sừng lên đối diện. Bên trong được chạm các hình ảnh rất độc đáo, mang những nét văn hóa riêng của người Cơ Tu, như hình ảnh các chàng trai, thiếu nữ Cơ Tu múa cồng chiêng, săn bắt thú rừng...
Lễ hội đâm trâu hàng năm thường diễn ra trước mùa tỉa lúa, dựng nêu giữa sân. Khi mặt trời ló dạng bắt đầu thủ tục cúng Giàng và các vị thần linh, hòa tấu khúc nhạc cúng từ nhạc cụ. Mọi người cùng nhau nhảy múa chung quanh con trâu, một người được cho là có công với làng cho trâu uống nước, đánh dấu điểm đâm, thịt trâu sau khị bị giết được chia cho cả làng cùng nhau nướng ăn.
 |
Nhà gươil truyền thống của người dân tộc Cơ Tu |
Trong làng người dân tộc Cơ Tu, các nếp nhà sàn tạo dựng theo hình vành khuyên hoặc gần giống như vậy. Ngôi nhà rông cao, to, đẹp, hơn cả là nơi tiếp khách chung, hội họp, cúng tế, tụ tập chuyện trò vui chơi.
Về trang phục
Trang phục của người dân tộc Cơ Tu có cá tính riêng trong tạo hình và trang trí trang phục, khác với các dân tộc thiểu số trong khu vực, nhất là trang phục nữ.
Nam giới người Cơ Tu thường đóng khố, ở trần, đầu vấn khăn hoặc để tóc ngắn bình thường. Khố có các loại bình thường, không trang trí hoa văn và ít màu sắc, loại dùng trong lễ hội dài rộng về kích thước và trang trí đẹp với màu sắc và hoa văn trên nền chàm. Mùa rét, thường khoác thêm tấm choàng dài hai, ba sải tay. Tấm choàng màu chàm và được trang trí hoa văn theo nguyên tắc bố cục dải băng truyền thống với các màu trắng đỏ, xanh. Việc mang tấm choàng có nhiều cách như quấn chéo qua vai trái xuống hông và nách phải, thành vài vòng rồi buông thõng xuống trùm quá gối. Lối khoác này tay và nách phải ở trên, tay và vai trái ở dưới hoặc quấn thành vòng rộng từ cổ xuống bụng, hoặc theo kiểu dấu nhân trước ngực vòng ra thân sau. |
| Lễ đâm trâu, một lễ hội văn hóa của người Cơ Tu |
Phụ nữ Cơ Tu thường để tóc dài búi ra sau gáy, hoặc thả buông. Ngày xưa họ ở trần, chỉ buộc một miếng vải như chiếc yếm che ngực. Họ mặc váy ngắn đến đầu gối, màu lanh khoác thêm tấm chăn. Họ thường mặc áo chui đầu khoét cổ, thân ngắn tay cộc. Về kỹ thuật đây có thể là một trong những loại áo giản đơn nhất, trừ loại áo choàng chỉ là tấm vải.. Áo loại này chỉ là hai miếng vải khổ hẹp gập đôi, khâu sườn và trừ chỗ tiếp giáp phía trên làm cổ. Khi mặc cổ xòe ra hai vai thoạt tưởng như áo cộc tay ngắn. Áo được trang trí ở vai, ngực, sườn, gấu, với các màu đỏ, trắng trên nền chàm. Váy ngắn cũng được cấu tạo tương tự như vậy theo lối ghép hai miếng vải khổ hẹp gập lại thành hình ống. Họ ưa mang các đồ trang sức như vòng cổ, vòng tay giống đeo đồng hồ, mỗi người có khi mang tới từ 5 đến 6 cái; khuyên tai bằng gỗ, xương, hay đồng xu; vòng cổ bằng đồng, sắt cũng như các chuỗi hạt cườm, vỏ sò, mã não.. Nhiều người còn đội trên đầu vòng tre có kết nút hoặc những vòng dây rừng trắng (rơnơk) và cắm một số loại lông chim. Một vài vùng thường có tục cưa răng cho nam nữ đến tuổi trưởng thành, khi đó làm tổ chức lễ đâm trâu. Ngoài ra người Cơ Tu còn có tục xăm mình, xăm mặt. Đồ trang sức phổ biến là vòng tay, vòng cổ, khuyên tai. Các phong tục xăm mặt, xăm mình, cưa răng, đàn ông búi tóc sau gáy đã dần được loại bỏ.
 |  |
Trang phục bằng vỏ cây của người dân tộc Cơ Tu | Trang phục của những cô gái Cơ Tu |