Cần phát hiện sớm ung thư đại tràng
Ung thư đại tràng là bệnh khá phổ biến ở nước ta, thực tế bệnh thường gặp ở cả hai giới nam và nữ nhưng ở nam bị mắc bệnh nhiều hơn nữ. Lứa tuổi mắc bệnh nhiều nhất là từ 30 đến 60. Bệnh cần được phát hiện sớm để can thiệp bằng phẫu thuật mới có hiệu quả, nếu phẫu thuật thì chỉ phẫu thuật một lần là tốt nhất. Phần lớn bệnh nhân đều đến bệnh viện muộn nên một số trường hợp không cắt bỏ được khối ung thư, vì vậy cần lưu ý vấn đề này. Đặc điểm của ung thư đại tràng Có thể nói ung thư đại tràng đứng hàng thứ hai ngang hàng với ung thư gan nguyên phát. Các nhà khoa học ghi nhận ở những bệnh nhân sau phẫu thuật thấy số người bệnh ung thư đại tràng sống thêm được 5 năm nhiều hơn số bệnh nhân bị ung thư dạ dày, ung thư gan hoặc ung thư thực quản. Đại tràng dài trung bình khoảng 1,5 mét nhưng cũng có trường hợp dài hơn, chúng có hình một cái khung nên thường được gọi là khung đại tràng. Khung đại tràng bắt đầu từ manh tràng và tận cùng ở chỗ tiếp nối giữa đại tràng xích ma với trực tràng. Đại tràng gọi là ruột già nên to hơn ruột non, trên thành có những dải dọc, kèm theo rất nhiều bờm mỡ to hoặc nhỏ, dày hay mỏng tùy theo người béo hay gầy. Cho đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân gây bệnh ung thư đại tràng, vì vậy đã có nhiều giả thuyết và nhận xét đã được nêu ra. Qua những bệnh nhân đã được điều trị tại bệnh viện, các nhà khoa học nhận thấy hầu hết bệnh nhân là người lao động chân tay, ít người lao động trí óc, ở đồng bằng nông thôn số người bị bệnh nhiều hơn ở thành thị, một số ít bệnh nhân trong tiền sử có bệnh polip rải rác ở đại tràng hoặc đại tràng có viêm loét chảy máu. Thông thường ung thư đại tràng có 3 loại là loại gây hẹp, loại sùi và loại phát triển trong thành đại tràng. Loại gây hẹp thường thấy ở đại tràng xích ma tại chỗ tiếp nối giữa đại tràng xích ma với trực tràng, tổn thương là một khối u nhỏ làm cho lòng đại tràng bị chít hẹp lại. Loại sùi thường gặp nhiều ở đại tràng phải với một khối u to, mặt sần sùi không rắn như loại gây hẹp. Loại phát triển trong thành đại tràng hiếm gặp và ung thư thường phát triển trong lớp cơ, rất khó phát hiện.
| Ung thư đại tràng cần phát hiện sớm mới điều trị phẫu thuật có hiệu quả (ảnh minh họa) |
Triệu chứng bệnh lý và chẩn đoán bệnh Triệu chứng cơ năng: Ung thư đại tràng trong thời kỳ đầu có thể gây đau hoặc đau âm ỉ, bệnh nhân có thể chịu đựng được hoặc đau nhiều thành cơn. Cơn đau thường không ăn nhịp với bữa ăn, có thể xuất hiện bất cứ lúc nào. Có trường hợp không đau nhưng lại có cảm giác nặng bụng. Không phải bao giờ tổn thương ung thư cũng ở dưới điểm đau. Có khi ung thư đại tràng trái nhưng điểm đau lại ở hố chậu phải. Triệu chứng rối loạn tiêu hóa như táo bón thường xuất hiện sau cơn đau, thuốc nhuận trường chỉ có tác dụng tạm thời, thuốc tẩy cũng vậy. Có khi đại tiện lỏng, ngày đi 4 - 5 lần, trong phân có lẫn máu và mủ, do đó dễ nhầm lẫn với bệnh kiết lỵ. Thực tế có bệnh nhân bị táo bón, có bệnh nhân bị tiêu chảy, có bệnh nhân có xen kẽ những đợt táo bón và tiêu chảy. Triệu chứng chảy máu đường ruột có thể xảy ra nhưng rất ít khi đại tiện ra máu đỏ tươi, thông thường trong phân có cả máu và mủ. Do đó bệnh nhân trên 50 tuổi mặc dù trong tiền sử có bệnh kiết lỵ hay bệnh trĩ nhưng phải chú ý để tìm phát hiện ra bệnh ung thư đại tràng. Triệu chứng thực thể: Các triệu chứng cơ năng nêu ở trên chỉ cho hướng để chẩn đoán nên cần phải khám bụng kỹ. Nếu chưa có khối u hình thành thì rất khó chẩn đoán, kể cả khi nắn sâu xuống bụng cũng không phát hiện một hiện tượng bất thường nào. Có trường hợp chỉ thấy triệu chứng trướng bụng nhẹ, đều hoặc manh tràng bị trướng hơi và đau nhẹ. Nếu có khối u đã hình thành thì việc chẩn đoán dễ dàng hơn, nắn khối u bên phải thường dễ phát hiện vì chúng thường to hơn khối u ở bên trái. Lưu ý phải phân biệt khối u ở đại tràng với khối u ở túi mật, gan, dạ dày, thận... Triệu chứng cận lâm sàng: Để giúp cho việc chẩn đoán bệnh, cần thực hiện các xét nghiệm cận lâm sàng như: chụp phim X quang, siêu âm, soi trực tràng - đại tràng, sinh thiết, phát hiện kháng nguyên CEA (carcinoma embryonic antigen) là kháng nguyên phôi ung thư biểu mô... Trong chẩn đoán, hầu hết các bệnh nhân bị ung thư đại trạng đều đến bệnh viện muộn và ở thời kỳ đầu rất khó phát hiện ung thư, dễ chẩn đoán nhầm lẫn với bệnh viêm đại tràng hoặc bệnh kiết lỵ. Vì vậy khi đối diện với một người cao tuổi, từ trước đến nay vấn đề tiêu hóa vẫn bình thường nhưng trong thời gian gần đây lại có rối loạn tiêu hóa với các đợt đại tiện lỏng hoặc táo bón hay đại tiện lỏng xen kẽ với táo bón; kèm theo đó là thể trạng mệt mỏi, da xanh, sút cân hoặc đôi khi có hội chứng bán tắc ruột thì phải nghĩ đến ung thư đại tràng; đồng thời thực hiện các xét nghiệm cần thiết để chẩn đoán xác định. Một số bệnh nhân khác đến cơ sở y tế khám vì thấy có khối u nằm trên khung đại tràng hoặc bị tắc ruột cấp tính, triệu chứng lâm sàng có biểu hiện nhiều hay ít, giống nhau hay khác nhau tùy theo vị trí của khối u ung thư. Các vị trí ung thư đại tràng Ung thư đại tràng có thể ở các vị trí đại tràng phải, đại tràng ngang và đại tràng trái. Mỗi vị trí ung thư đại tràng có biểu hiện triệu chứng bệnh lý và phương pháp điều trị khác nhau cần được lưu ý. Ung thư đại tràng phải: Thông thường là một khối u, nếu ở manh tràng hay ở 1/3 phải đại tràng ngang thì khối u di động nhiều, còn ở đại tràng lên hay ở góc gan phải thì di động ít; nếu khối u đã dính vào thành bụng hay vào một cơ quan lân cận thì có thể không di động hoặc di động ít. Khi khối u di động nhiều, phẫu thuật càng dễ dàng và sau phẫu thuật ít có biến chứng. Thực tế trong khi phẫu thuật thường thấy khối u to hơn ước lượng qua nắn ở thành bụng trước phẫu thuật. Khối u càng to càng có nhiều mô dính chung quanh, vì vậy khi loại bỏ khối u dễ có nguy cơ làm tổn thương đến các cơ quan lân cận. Khối u ung thư ở đại tràng phải ít khi làm hẹp, gây tắc ruột mặc dù chúng thường to hơn khối u ung thư ở đại tràng trái và khối u này hay bị nhiễm khuẩn nhiều hơn. Lúc mở khối u thấy có nhiều ổ mủ trong thành hoặc ở mặt trên, do đó về lâm sàng dễ nhầm lẫn với áp xe ruột thừa hoặc áp xe túi mật. Nắn bụng có thể thấy khối u di động ít hay nhiều. Nếu ung thư manh tràng thì khối u nằm ở hố chậu phải dễ nhầm lẫn với bệnh lao góc hồi - manh tràng, nếu khối u ở góc gan thì loại u lớn mới có thể nắn thấy và dễ nhầm lẫn với u ở gan hay ở thận. Ung thư đại tràng ngang: Gặp ít hơn ung thư đại tràng phải và đại tràng trái. Do đại tràng ngang thường dài và di động dễ dàng nên khối u ở đoạn này có thể thấy ở bất cứ vùng nào trong hố bụng và khi tiến triển có thể dính với gan, mật, dạ dày, ruột non, đại tràng xích ma, phần phụ, tử cung và cả với bàng quang. Lòng đại tràng ngang rộng nên khối u ít khi gây tắc ruột nhưng dễ bị nhiễm khuẩn. Tổn thương ung thư có thể thấy 3 dạng gồm: dạng u thường to, mô u giống mô não, thấy nhiều ở đoạn 1/3 phải và đoạn 1/3 giữa; dạng thắt với đoạn có ung thư bị co thắt lại, thành cứng, thấy nhiều ở đoạn 1/3 trái; dạng loét rất hiếm gặp. Việc chẩn đoán trong giai đoạn đầu rất khó, đến giai đoạn có khối u thì chẩn đoán dễ dàng hơn nhưng cũng có thể bị nhầm lẫn với khối u ở các cơ quan khác. Việc chẩn đoán xác định phải thực hiện các xét nghiệm cần thiết. Ung thư đại tràng trái: Khối u ở đại tràng trái có tính chất chung là kích thước nhỏ, có xu hướng làm hẹp lòng đại tràng, có loại bị thâm nhiễm cứng; đoạn bị cứng có khi dài khi ngắn, thường gặp ở đại tràng xích ma. Chẩn đoán xác định cũng căn cứ vào các xét nghiệm cần thiết như chụp phim X quang, siêu âm, soi trực tràng - đại tràng... Việc điều trị bằng phẫu thuật đã có nhiều tiến bộ và kết quả cũng khả quan hơn. Biến chứng của ung thư đại tràng Ung thư đại tràng thường gây nên những biến chứng như tắc ruột, thủng ruột, áp xe quanh khối u và di căn. Tắc ruột: Theo các nhà khoa học, có khoảng 30% các trường hợp ung thư đại tràng phải phẫu thuật cấp cứu do biến chứng tắc ruột. Hầu hết các trường hợp tắc ruột là do khối u làm tắc lòng đại tràng. Trong một số trường hợp, do thành đại tràng có khối u bị viêm, phù nề nên lòng đại tràng vốn đã hẹp lại càng hẹp hơn. Một nguyên nhân khác làm tắc ruột là do lồng ruột, thường gặp khối u ở manh tràng lồng vào đại tràng lên. Tắc ruột đại tràng khác với tắt ruột ở ruột non, tình trạng rối loạn nước và chất điện giải xuất hiện rất sớm trong tắc ruột non nhưng lại muộn hơn khi tắc ruột ở đại tràng. Vì vậy triệu chứng toàn thân cũng khác, ở ruột non chỉ sau 2 ngày bị tắc ruột thì tình trạng toàn thân đã suy sụp nhiều, trái lại ở đại tràng sau 3 - 4 ngày bị tắc ruột thì tình trạng toàn thân vẫn còn tốt; do đó nếu ruột non bị tắc cần phải phẫu thuật ngay, còn đại tràng bị tắc có thể chờ đợi được. Thủng ruột: Biến chứng thủng ruột thường gặp ở bệnh nhân đến bệnh viện với hội chứng viêm phúc mạc hoặc tắc ruột. Tỷ lệ người bệnh bị tử vong sau phẫu thuật chiếm tỷ lệ rất cao, bệnh nhân bị tử vong không phải do phẫu thuật mà vì nhiễm khuẩn nặng. Lỗ thủng ruột có thể ở ngay khối u hoặc ở ngoài khối u, ở gần hoặc ở xa khối u; thực tế có thể gặp trường hợp tắc ruột ở đại tràng xích ma nhưng lại bị thủng ruột ở manh tràng. Việc quyết định xử trí tùy theo vị trí của lỗ thủng và tình trạng toàn thân của bệnh nhân. Áp xe quanh khối u: Biến chứng này không phải là hiếm gặp nhưng khó chẩn đoán, dễ nhầm lẫn với áp xe ruột thừa, viêm túi mật cấp tính, áp xe phần phụ... Dù áp xe quanh khối u ở bên phải hay bên trái đều cần phải chích áp xe, khi mủ đã bớt nhiều trong khoảng từ 7 - 10 ngày sau, phải mở bụng ra kiểm tra khối u và các cơ quan trong hố bụng; tùy tình trạng bệnh nhân và vị trí của khối u để xử trí. Di căn: Xuất hiện muộn ở niêm mạc thành bụng, ở gan hoặc ở buồng trứng, các hạch... Thông thường trong khi phẫu thuật mới phát hiện thấy hiện tượng di căn. Sau phẫu thuật có thể có di căn ở phổi, phát hiện bằng cách chụp hình phổi. Cần theo dõi sự tái phát hoặc hiện tượng di căn sau phẫu thuật bằng xét nghiệm định lượng CEA (carcinoma embryonic antigen) là kháng nguyên phôi ung thư biểu mô... Điều trị bệnh ung thư đại tràng Ung thư đại tràng muốn điều trị đạt kết quả tốt phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, trong đó yếu tố quan trọng nhất là phát hiện bệnh sớm. Các nhà khoa học cho rằng những bệnh nhân bị mắc bệnh ung thư đại tràng được phát hiện tình cờ và xử lý can thiệp bằng phẫu thuật sớm thì có khoảng 82% trường hợp có thể sống trên 5 năm, trái lại những bệnh nhân đã có triệu chứng của bệnh ung thư rồi mới đi khám và được phẫu thuật thì chỉ có khoảng 45% trường hợp sống thêm được trên 5 năm. Ung thư đại tràng có nhiều phương pháp điều trị can thiệp như phẫu thuật, dùng hóa chất chống ung thư, tia X quang kết hợp phẫu thuật với hóa chất, tia phóng xạ... Cho đến nay phẫu thuật vẫn là phương pháp điều trị chính. Việc điều trị bằng hóa chất có khả năng diệt tế bào ung thư nhưng không diệt được tế bào ung thư cuối cùng nên phương pháp điều trị bằng hóa chất thường kết hợp với phẫu thuật và X quang. Dùng hóa chất sẽ làm giảm một lượng lớn tế bào ung thư, số còn lại dùng phẫu thuật lấy bỏ nốt hoặc dùng hóa chất sau phẫu thuật để tiêu diệt những tế bào ung thư mà phẫu thuật không lấy được hết. Hiện nay phương pháp điều trị kết hợp giữa phẫu thuật với hóa chất chống tế bào ung thư ngày càng được sử dụng rộng rãi. Lưu ý hóa chất không những diệt tế bào ung thư mà còn có thể diệt cả một số tế bào bình thường khác như bạch cầu, vì vậy bệnh nhân cần phải được theo dõi thường xuyên trong quá trình điều trị. Phương pháp điều trị bằng tia phóng xạ cùng được kết hợp với phẫu thuật nhưng ít hơn so với hóa chất chống ung thư, thông thường tia phóng xạ được chỉ định điều trị cho những trường hợp không còn khả năng điều trị bằng phẫu thuật và những trường hợp tái phát sau phẫu thuật. Lời khuyên của thầy thuốc Như trên đã nêu, ung thư đại tràng là bệnh khá phổ biến tại nước ta, thường đứng hàng thứ hai ngang hàng với bệnh ung thư gan nguyên phát. Thực tế hầu hết bệnh nhân bị ung thư đại tràng đều đến bệnh viện muộn và thời kỳ đầu rất khó phân biệt với bệnh ung thư, dễ chẩn đoán nhầm lẫn với bệnh viêm đại tràng hoặc bệnh kiết lỵ. Ung thư đại tràng có thể dẫn đến các biến chứng trầm trọng như tắc ruột, thủng ruột, áp xe quanh khối vu, di căn đến nơi khác... Vì vậy khi có những dấu hiệu triệu chứng bất thường, bệnh nhân cần phải đến cơ sở y tế để phát hiện, chẩn đoán bệnh thật sớm vì đây là yếu tố quan trọng nhất để có chỉ định điều trị phù hợp. Nếu phải phẫu thuật thì chỉ phẫu thuật một lần là tốt nhất. Sau phẫu thuật cần có kiểm tra định kỳ trong thời gian 3 tháng, 6 tháng và 1 năm.
|