|
Động kinh là rối loạn từng cơn chức năng của hệ thần kinh trung ương (ảnh minh họa) |
Động kinh do rối loạn thần kinh trung ương
Động kinh là tình trạng rối loạn từng cơn chức năng của hệ thần kinh trung ương do sự phóng điện đột ngột và quá mức của các tế bào thần kinh. Bệnh được ghi nhận ở nhiều quốc gia, trong đó có nước ta với tỷ lệ khoảng 0,5 đến 2% dân số. Hiện nay với sự tiến bộ của khoa học, các phương tiện kỹ thuật mới đã giúp chẩn đoán dễ dàng và chính xác những tổn thương ở não nên đã thu hẹp được phạm vi của các cơn động kinh vô căn.
Đặc điểm của bệnh động kinh Có thể nói động kinh là bệnh có đặc điểm xuất hiện từng cơn ngắn từ một vài giây đến một vài phút, cơn có tính định hình, cơn sau giống với cơn trước, xảy ra một cách đột ngột không kịp đề phòng, có biểu hiện các chức năng thần kinh trung ương bị rối loạn với cơn vận động, cảm giác, giác quan, thực vật...; điện não đồ ghi được các đợt sóng kịch phát, mất ý thức là biểu hiện thường thấy trong cơn động kinh. Các đặc điểm này dùng để xác định tình trạng động kinh và cũng là tiêu chuẩn để chẩn đoán những rối loạn chức năng thần kinh không phù hợp. Động kinh có nhiều loại thể bệnh khác nhau được phân chia theo tính chất của cơn động kinh, nguyên nhân gây bệnh và điện não đồ đo được. Theo cơn động kinh có cơn động kinh cục bộ hay động kinh ổ, cơn động kinh toàn bộ nguyên phát, cơn động kinh trạng thái, cơn động kinh hồi quy. Theo nguyên nhân gây bệnh có cơn động kinh nguyên phát còn gọi là động kinh vô căn, cơn động kinh triệu chứng còn gọi là cơn động kinh thứ phát. Theo điện não đồ đo được có cơn động kinh biểu hiện các đợt phóng điện kịch phát đồng thời, đối xứng, lan tỏa ra hai bên tương ứng với động kinh nguyên phát cơn lớn, cơn nhỏ; cơn động kinh biểu hiện các đợt phóng điện kịch phát khu trú ở một diện giới hạn vỏ não, có hoặc không lan tỏa đến các phần còn lại của não tương ứng với một tập hợp các cơn gọi là động kinh khu trú, động kinh ổ, động kinh cục bộ. Thực tế, việc chẩn đoán bệnh động kinh thường kết hợp triệu chứng lâm sàng và dấu hiệu được biểu hiện trên điện não đồ. Nguyên nhân gây bệnh động kinh Bệnh động kinh thường do nhiều nguyên nhân khác nhau như chấn thương sọ não, u não, tai biến mạch máu não, nhiễm khuẩn nội sọ... Ngoài ra cũng có thể do một số các nguyên nhân khác như rối loạn chuyển hóa vì hạ đường huyết, hạ calci huyết, thiếu pyridoxin hay vitamin B6, rối loạn nước - điện giải; các bệnh nội khoa gồm suy tim, suy thận, urê máu cao, ngộ độc...; ở nước ta trường hợp mắc bệnh ấu trùng sán dây lợn khu trú ở não có thể gây nên cơn động kinh. Đồng thời các nhà khoa học cũng đã đề cập đến vấn đề động kinh và yếu tố di truyền đối với loại động kinh vô căn, theo đó nhiều cuộc tranh luận về việc kết hôn của bệnh nhân động kinh vô căn đã đi đến kết luận là những người bị bệnh động kinh rất ít khi có con bị động kinh, do đó không cần cản trở việc kết hôn; chỉ nên xem xét một cách dè dặt nếu cả hai trường hợp nam nữ đều bị bệnh động kinh muốn kết hôn với nhau. Chẩn đoán xác định bệnh động kinh Việc chẩn đoán bệnh động kinh rất dễ dàng nếu được chứng kiến triệu chứng lúc bệnh nhân đang lên cơn động kinh. Trên thực tế, bệnh nhân đến cơ sở y tế để khám bệnh thường ở ngoài cơn nên việc chẩn đoán phải căn cứ vào nội dung hỏi bệnh thật tỉ mỉ, thận trọng; mô tả chính xác các cơn động kinh đã xảy ra và tìm phát hiện những dấu vết còn lại trên cơ thể người bệnh như các vết sẹo do cơn động kinh gây nên... Khi chẩn đoán, cần kết hợp triệu chứng lâm sàng với điện não đồ để biết cụ thể các loại cơn động kinh. Trong thực hành, cần lưu ý đến định nghĩa và tiêu chuẩn xác định cơn động kinh như đã nêu ở trên; dù là một cơn khó thở, một cơn đau bụng hoặc bất cứ loại cơn gì xảy ra một cách đột ngột và mất đi nhanh chóng đều phải nghĩ đến cơn động kinh rồi sau đó tìm cách chẩn đoán xác định vì trên thực tế đã có trường hợp bệnh nhân bị mổ nhầm cơn đau bụng cấp trong cơn động kinh thể nội tạng. Lưu ý trong chẩn đoán xác định bệnh động kinh, cần chẩn đoán phân biệt với một số bệnh lý khác để tránh nhầm lẫn như: Cơn hysteria thường xảy ra trước môi trường đông người, bệnh nhân thường biết trước nên chọn chỗ để lên cơn; cơn thường kéo dài, hai mí mắt nhắm lại nhưng nhấp nháy, không hôn mê, thường nói lảm nhảm, la hét, sắc mặt không thay đổi, không cắn phải lưỡi, không đi tiểu ra quần; cơn giật hỗn độn không thành nhịp; khi khám thần kinh thấy mọi chức năng vẫn bình thường; một kích thích đột ngột mạnh có thể làm hết cơn; sau cơn, bệnh nhân có thể biết được những gì vừa xảy ra, kêu nhức đầu hoặc đau các cơ; đo điện não đồ thấy hoàn toàn bình thường; tuy nhiên trên thực tế có trường hợp bệnh nhân phối hợp cơn hysteria và cơn động kinh nên có biểu hiện cả hai loạn cơn. Cơn ngất xỉu do mạch chậm và yếu ghi nhận trước cơn thường bệnh nhân hay bị chóng mặt, huyết áp hạ; vì vậy cần kiểm tra chức năng tim mạch cẩn thận. Cơn vận mạch và giao cảm nhận thấy bệnh nhân mệt mỏi, mặt tái xanh, có cảm giác như sắp chết nhưng ý thức không bị mất đi. Cơn thiểu năng tuần hoàn não do tình trạng hẹp, tắc mạch cảnh hay mạch sống nền gây các cơn thiếu máu cục bộ não; có biểu hiện đột ngột, nói khó, liệt nửa người; các triệu chứng thần kinh tồn tại lâu hơn cơn động kinh, bệnh nhân thường tỉnh táo. Cơn hạ đường huyết thường xảy ra lúc đói, bệnh nhân toát mồ hôi, ngã xuống, hôn mê, có khi co giật; các triệu chứng này thường xảy ra chậm, không đột ngột như cơn động kinh; thử đường huyết thấy hạ; nếu cho bệnh nhân uống nước đường hoặc tiêm dung dịch glucose 30% vào tĩnh mạch thì người bệnh tỉnh lại nhanh chóng. Cơn co giật sốt ở trẻ em có thể xảy ra mỗi khi bị sốt cao do một nguyên nhân nào đó, loại co giật này không phải động kinh nhưng là cơ địa dễ dẫn đến nguy cơ động kinh sau này. Điều trị bệnh động kinh cơn lớn Nguyên tắc điều trị bệnh động kinh cơn lớn là phải tìm mọi cách cắt cơn càng nhanh càng tốt, chống phù não, hồi sức tim mạch, chống các rối loạn thần kinh thực vật; sau cắt cơn, có thể tiến hành điều trị nguyên nhân, nếu nguyên nhân do mạch máu thì phải giải quyết ngay bằng phẫu thuật cấp cứu. Việc điều trị cụ thể là cho bệnh nhân nằm ngửa, đặt đầu hơi ngửa để dễ thở; đặt ống thông vào miệng và buộc chặt bằng dây qua gáy để tránh người bệnh cắn phải lưỡi và qua đó có thể hút đờm dãi; cho thở oxy liên tục từ 2 đến 3 l/phút qua ống thông cao su đặt sâu khoảng 7 - 8 cm vào mũi; đặt ống thông truyền tĩnh mạch để khi lên cơn co giật không chệch ra ngoài tĩnh mạch như khi dùng kim; thực hiện các xét nghiệm cần thiết càng nhanh càng tốt theo chỉ định. Sử dụng ngay cùng một lúc cả hai loại thuốc phenobarbital tiêm bắp thịt và benzodiazepine như valium, seduxen... tiêm chậm vào tĩnh mạch; sau một giờ có thể lặp lại một lần nữa. Tiếp theo truyền nhỏ giọt vào tĩnh mạch liên tục thuốc valium hòa trong dung dịch glucose đẳng trương 5%, truyền với tốc độ chậm khoảng 5 - 15 giọt/phút. Sau đó tùy theo kết quả mà điều chỉnh, chuyển sang truyền xen kẽ dung dịch glucose đơn thuần; nên dùng ống nối ba chạc để dễ chuyển đổi hoặc ngừng tùy ý. Phác đồ điều trị này tuy đơn giản nhưng mang lại kết quả tốt, cơn động kinh thường được cắt sau mũi tiêm tĩnh mạch đầu tiên. Lưu ý truyền tĩnh mạch chậm thuốc valium cần kéo dài trong khoảng thời gian từ 3 đến 12 giờ tùy theo kết quả điều trị. Thực tế do thuốc phenobarbital có ảnh hưởng đến trạng thái ý thức nên một số bác sĩ thích sử dụng diphenyl-hydantoine loại tiêm tĩnh mạch. Lời khuyên của thầy thuốc Theo các nhà khoa học, bệnh động kinh gặp nhiều nhất ở trẻ em dưới 4 tuổi, tần suất bệnh giảm dần ở lứa tuổi trưởng thành và tăng lên chút ít ở tuổi 60; ở trẻ sơ sinh thường thấy nhiều hơn ở trẻ nhỏ có thể có liên quan đến các chấn thương lúc sinh đẻ. Nếu cơn động kinh đầu tiên càng xuất hiện muộn khoảng từ 20 đến 25 tuổi thì càng nhiều khả năng có tổn thương thực thể. Thực tế nguyên nhân phổ biến của bệnh động kinh muộn là do chấn thương, u não là nguyên nhân vốn rất được chú ý thực ra chỉ chiếm tỷ lệ khoảng 6 - 8%; loại động kinh không tìm được nguyên nhân có thể chiếm đến 25 - 30%, số còn lại có liên quan đến mạch máu não nhưng không chắc chắn. Vì vậy khi phát hiện người thân của mình có dấu hiệu của bệnh động kinh, cần đưa đến ngay cơ sở y tế để được khám, chẩn đoán bệnh sớm và xử trí can thiệp điều trị kịp thời, phù hợp tùy trường hợp.
|