Một số câu hỏi thường gặp liên quan đến giun sán mà gia đình quan tâm
1. Thưa bác sỹ, hiện nay có những cách gì để phát hiện trẻ có bị mắc bệnh giun sán hay không? Về mặt phát hiện và chẩn đoán ca bệnh, về nguyên tắc phải dựa vào triệu chứng lâm sàng, các yếu tố liên quan dịch tễ học ca bệnh hay bệnh lý do tác nhân ký sinh trùng hướng đến. Về xét nghiệm cận lâm sàng, phương pháp cổ điển và hiệu quả, kinh tế nhất để chẩn đoán có mắc bệnh giun sán hay không là xét nghiệm phân trực tiếp bằng nhiều kỹ thuật khác nhau. Ngoài ra, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nên hiện nay có các phương pháp khác có thể hỗ trợ chẩn đoán như: - Xét nghiệm miễn dịch chẩn đoán (Immunodiagnosis) thông qua phát hiện kháng thể (antibody) hoặc kháng nguyên (antigen) hoặc các thành phần của giun sán trong quá trình phát triển của chúng trong chu kỳ (life-cycle) như chất tiết của ấu trùng giun sán; - Xét nghiệm thông qua các phẩu tích hoặc sinh thiết và chẩn đoán (biopsy based-parasitic diagnosis); - Chẩn đoán hình ảnh (gồm có siêu âm, x-quang, CT-scanner, MRI) và một số bệnh giun sán như ấu trùng sán dây lợn, sán dải chó, sán lá phổi, sán lá gan lớn gây tổn thương trong gan và lạc chỗ một số cơ quan khác nhau trong cơ thể như lách, tinh hoàn, cơ, buồn trứng, đại tràng,… Hình 1
Dưới đây là một ví dụ chẩn đoán một căn bệnh ký sinh trùng Kala-Azar có thể dùng nhiều phương pháp khác nhau có thể gián tiếp, có thể trực tiếp: Ngoài ra, điểm đặc biệt trong chu kỳ các loài ký sinh trùng là có thể ký sinh trên nhiều vật chủ khác nhau và có nhiều giai đoạn sinh sản và phát triển, tùy thuộc ký sinh trùng đang ở vị trí nào trong cơ thể bệnh nhân hay giai đoạn nào mà các nhà cận lâm sàng và lâm sàng có thể chỉ định lấy các mẫu bệnh phẩm khác nhau, xem ví dụ dưới đây: Hình 2
2. Thưa bác sỹ, có thể dùng thuốc tẩy giun sán cho người lớn để tẩy giun cho trẻ được không? Hầu hết thuốc điều trị và phòng bệnh dùng dựa trên liều theo cân nặng bệnh nhân, một số khác có thể dựa trên nhóm tuổi (hay điều trị trong cộng đồng và điều trị hàng loạt). Vì thế thuốc điều trị nên dùng theo cân nặng bệnh nhân. Hiện trên thị trường các nhà sản xuất đã cho ra đời các sản phẩm thuốc điều trị và phòng bệnh giun sán cho đối tượng cả trẻ em và người lớn. Trong trường hợp, không có thuốc cho trẻ em, có thể dùng thuốc người lớn chia liều sao cho phù hợp với cân năng của bệnh nhân. Hình 3
3. Thưa bác sỹ, con tôi 3 tuổi, cháu hay bị đau bụng, bụng to, rất ốm mặc dù cháu ăn uống vẫn bình thường, vậy có phải cháu bị giun sán không? Đau bụng và bụng to không nhất thiết lúc nào cháu cũng nhiễm giun sán đâu. Đặc biệt, đối với trẻ em về mặc giải phẩu bụng ở trẻ nhỏ. Vì cấu trúc ruột của trẻ em khá dài so với kích thước bụng, lớp cơ thành bụng cũng chưa phát triển đầy đủ, nên bụng của em bé đa số đều to. Trong quá trình phát triển, cháu bé sẽ tăng trưởng về chiều cao nhanh hơn sự tăng trưởng của ruột, kéo theo đó, phần bụng của chúng sẽ gọn gàng hơn. Đây là một tiến trình sinh lý phát triển bình thường. Nếu bạn phát hiện thấy những biểu hiện bất thường khác như bụng trương cứng, hay bé than khóc vì đau bụng, hoặc có những biểu hiện rối loạn của đường tiêu hóa như nôn mửa, đi phân lỏng, phân có máu cần lập tức đưa bé đến cơ sở y tế (CSYT) để được thăm khám và chẩn đoán. Có thể lúc này, bé đã mắc một bệnh lý cấp tính của hệ tiêu hóa. Thông thường trẻ ăn sữa nhân tạo số lần ngoài sẽ ít hơn trẻ bú mẹ, phân thường thành khuôn, mùi thối hơn, và phân thường táo hơn phân của trẻ bú mẹ. Trẻ bú bình thường nuốt nhiều không khí vào dạ dày hơn nên trẻ thường ợ nhiều hơi sau khi bú và nên chú ý vỗ ợ cho trẻ để tránh tinh trạng trào ngược do trẻ trớ vì nuốt nhiều hơi. Hình 4
Còn về đau bụng, có thể các cháu có các bệnh lý và tình trạng sinh lý khác nhau dẫn đến đau bụng trên một số trẻ em và có thể xử trí đơn giản: •Đầy hơi và đau dạ dày: Có thể do ăn quá nhiều, hoặc bị đầy hơi àBác sĩ khuyên dùng khăn sạch, làm ấm khăn và chườm lên bụng bé, dùng tay xoa bụng bé một cách nhẹ nhàng; •Đau dạ dày và bụng cứng, đi tiêu ra phân có cục nhỏ: Có thể là do táo bón à Bác sĩ khuyên cần bổ sung chất xơ vào phần ăn của bé, thêm rau, trái cây cắt nhỏ hoặc uống thêm nước trái cây; •Buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy, sốt và ớn lạnh: Có thể là viêm dạ dày-ruột à Bác sĩ khuyên vì trẻ nôn ói nhiều, lại tiêu chảy nên rất dễ bị mất nước, cần cho trẻ ăn thức ăn lỏng để bù nước và dễ nuốt như cháo, súp. Để bù nước có thể cho trẻ uống nước đường, nhưng không nên pha quá nhiều đường. Cũng không nên cho trẻ ăn thức ăn nhiều dầu mỡ khi trẻ đang bị nôn ói. •Đau co thắt dạ dày, nôn mửa, tiêu chảy và thường bị sốt: Có thể là do ngộ độc thức ăn à Bác sĩ khuyên cho con ăn nhiều thức ăn lỏng để chống mất nước, ăn mỗi lần từng chút một cháo, súp, cơm nhão để phục hồi men tiêu hóa. Không cho trẻ uống thuốc cầm tiêu chảy. Nếu tình trạng trẻ không được cải thiện, cần đưa bé đến ngay bệnh viện; •Đau bụng cộng với đau họng và đôi khi sốt: Có thể là do viêm khuẩn cầu chuỗi họng à Bác sĩ khuyên bạn đối với trường hợp xác định bị viêm khuẩn cầu chuỗi họng, bác sĩ sẽ kê toa kháng sinh trong 10 ngày. Sau 24 tiếng uống kháng sinh, trẻ sẽ hạ sốt. Vào ngày thứ 2 hay thứ 3 thì các triệu chứng khác cũng sẽ giảm dần đi, tuy nhiên vẫn nên cho con uống đủ 10 ngày thuốc kháng sinh vì vi khuẩn có thể vẫn còn trong cổ họng, nếu dừng uống thuốc quá sớm thì bệnh có thể sẽ quay trở lại. - - Khó chịu, đau quanh vùng rốn hoặc bên phải của dạ dày: Có thể do viêm ruột thừa à Bác sĩ khuyên nên ngay lập tức đưa con đến bệnh viện hoặc cơ sở y tế gần nhất. •Không giải thích được một cách rõ ràng bé bị đau như thế nào, chỉ biết là trẻ thấy đau bụng: Có thể là do trẻ bị căng thẳng hay đang lo sợ trước áp lực nào đó à Bác sĩ khuyên: tìm hiểu nguyên nhân vì đâu trẻ bị căng thẳng hay lo lắng quá mức. Khi đã biết rõ lý do, cha mẹ nên chuyện trò và giải thích hoặc cùng trẻ tìm hướng giải quyết để giải tỏa lo lắng của trẻ, có thể nhờ một người thân mà trẻ quí mến, hay chuyện tò hoặc tâm sự cùng để làm “chuyên gia tư vấn” cho bé. Như trên, bạn có thể thấy được đau bụng và có kèm hay không kèm bụng lớn ở trẻ em là nhiễm giun hoàn toàn đâu mà còn do các nguyên nhân dẫn đến từ bệnh lý khác. 4. Thưa bác sỹ, con tôi chỉ mới 5 tuổi, tuy nhiên cháu bị giun kim rất nhiều lần, tôi đã tẩy giun cho cháu định kỳ nhưng vẫn không hết. Xin bác sỹ cho biết giun kim gây tác hại như thế nào và cách điều trị ra sao? Một trong những điểm đặc biệt của giun kim Enterobius vermicularis là có chu trình tự nhiễm nên có thể không cần một đợt nhiễm mới thì giun kim cũng có thể tự hoàn thành chu kỳ và tiếp tục sinh sản và gây bệnh cho người. Khi mắc bệnh, nhất là trẻ em dễ mất ngủ do thường ngứa hậu môn vào ban đêm, ảnh hưởng giấc ngủ ngon của các cháu và giảm sút sức học tập, thâm chí suy dinh dưỡng trên một số em. Hình 5
Người là vật chủ tự nhiên duy nhất của giun kim và cho đến gần đây cũng không có một ổ chứa nào xác nhận là ổ chứa của chúng. Tuy nhiên, vào năm 2004, Chan và cộng sự trình bày sự tồn tại giun kim và giun xoắn Trichinella spiralis trên các con gián ở các bệnh viện và trường học ở Hawaii. Trong khi biết gián là các con vật mang vi khuẩn và nấm sinh bệnh ở người, thì mối liên kết giữa gián với các giun sán gây bệnh vẫn chưa được minh chứng làm rõ và đây là báo cáo đầu tiên về nhiễm giun kim xảy ra tự nhiễm trên các con gián. Năm 2005, Tatfeng và cộng sự đã phân lập được trứng giun kim trên các con gián (Diploptera punctata), cũng như trứng, bào nang, nang trứng và giun trưởng thành của một số ký sinh trùng khác đồng thời. Nhóm tác giả này bắt được 234 con gián từ các vùng quanh nhà ở Ekpoma, châu Phi. Các con gián sau khi bắt được đem để vào trong các hộp chứa dung dịch formol saline, rồi tiếp đó rung mạnh để tách ký sinh trùng ra khỏi côn trùng gián này. Dung dịch sau đó mang đily tâm và soi dưới kính hiển vi. Các thử nghiệm từ cả hai nghiên cứu đã có giá trị rất lớn về mặt y tế công cộng. Gián thì có khắp mọi nơi và cả hai nghiên cứu đã phát hiện giun kim trên gián là một khía cạnh có giá trị trong nghiên cứu về ổ chứa. Nếu đây là một ổ chứa bổ sung ngoài con người, thì việc phòng chống quần thể gián cũng như hạn chế về mặt phơi nhiễm của gián có thể làm giảm thiểu tối đa không chỉ cho quá trình lan rộng của giun kim mà còn nhiều bẹnh nhiễm trùng khác nữa. Tỷ lệ mắc bệnh, với tỷ lệ nhiễm chung trên thế giới khoảng < 5%, chẳng hạn ở Mỹ tỷ lệ này nhiễm khoảng 5-15% quần thể dân số chung; tuy nhiên, tỷ lệ này đã giảm rõ trong những năm gần đây do chương trình phòng bệnh tốt ở hầu hết các quốc gia. Bên cạnh đó, tỷ lệ nhiễm lại có khả năng tăng cao hơn ở những cá nhân cùng một cơ sở làm việc, trong khu nhà trẻ, nội trú,… Gần đây, người ta cũng suy xét chính bản thân giun kim có thể đóng vài trò như một vật chủ trung gian đối với tác nhân Dientamoeba fragilis, một loại đơn bào “bí ẩn” mà vẫn sống chật vật để được công nhận như một tác nhân sinh bệnh ở người tại một số quốc gia. Tuy nhiên, một sự gia tăng các nghiên cứu đang quy trách nhiệm nó như một tác nhân đường ruột chính thông và nó có liên quan đến các hội chứng lâm sàng như đau bụng, tiêu chảy, nôn mửa, buồn nôn và suy nhược cơ thể. Tuy nhiên, những điều cần biết về loại tác nhân này hiện vẫn còn đang nghiên cứu, kể cả sự lan truyền bệnh. Hầu hết các đơn bào đường ruột lây truyền qua con đường phân miệng thông qua thể nang, thì loài D. fragilis nhìn chung được chấp nhận là không có thể nang này. Hình 5
Do đó, các nghiên cứu đã quay trở lại với họ hàng gần gũi nó nhất là loài Histomonas meleagridis để so sánh. Loài đơn bào H. meleagridis sở hữu một số đặc tính có thể so sánh với loài D. fragilis và điều thú vị là nó lây truyền thông qua trứng của giun tròn Heterakis gallinae. Burrows và Swerldlow (1956) đề xuất chúng ta nên xem D. fragilis lây truyền thông qua trứng của giun kim dựa trên các phân tích trên 22 ruột thừa đã được phân lập D. fragilis, kết quả phân tích cho thấy rằng tỷ lệ nhiễm giun kim cao gấp 20 lần và các vật thể dạng amip nhỏ có sự tương đồng rất có ý nghĩa với nhân của D. fragilis được phát hiện trong trứng giun kim. Song, dù gì đi nữa có chăng D. fragilis còn liên quan đến các ký sinh trùng đường ruột khác, như giun đũa Ascaris lumbricoides chẳng hạn và thiếu giai đoạn thể nang vẫn chưa thể chứng minh, vì D. fragilis dã được tìm thấy với tỷ lệ cao đồng nhiễm với các vi sinh vật khác cũng lây truyền theo con đường phân miệng. Giun kim lây truyền từ người sang người do ăn phải hoặc nuốt phải trứng giun gia đoạn nhiễm và/ hoặc đi vào con đường hậu môn. Trứng giun có thể chịu đựng và còn sống và gây nhiễm được đến 3 tuần trong môi trường ẩm. Chúng không chịu nhiệt nóng nhưng có thể sống trong nhiệt độ thấp, 2/3 số trứng giun có thể sống sau 18 giờ ở điều kiện nhiệt độ -8°C. Tất cả các trứng đầu tiên đều đào thải ra (hoặc theo phân) và dính lại vùng gần hậu môn, chúng sẵn sàng lây nhiễm sàng bề mặt khác nếu tiếp xúc với chúng còn có khả năng nhiễm. Bề mặt trứng của chúng dễ dính khi mới đẻ ra, nên dễ dính và gây nhiễm từ vùng quanh hậu môn sang móng tay, bàn tay, quần áo và chăm nệm vào ban đêm. Từ đây, các trứng sẽ tiếp tục lây truyền sang các nguồn khác như thức ăn, thực phẩm, nước, đồ gỗ, đồ chơi trẻ, vật dụng nhà tắm và các vật dụng sinh họat khác. Các vật cưng trong nhà thường mang trứng dính vào trong các lông thú cưng, trong khi đó chúng không thực sự nhiễm. Các đám rác mang trứng có thể lây truyền qua môi trường không khí và có thể phân tán lan rộng khi chúng được đổ ra khỏi bề mặt, ví dụ như khi giũ các quần áo ngủ hoặc mềm màng. Do vậy, trứng có thể đi vào miệng, mũi thông qua con đường hít và nuốt sau đó. Mặc dù giun kim không thật sự nhân lên trong cơ thể vật chủ người, song một số ấu trùng giun kim có thể đẻ ra ở vùng niêm mạc của hậu môn và di chuyển lên đến ruột và đi vào đường tiêu hóa của vật chủ ban đầu theo một chu trình, gọi là nhiễm trùng ngược dòng (retroinfection). Khi nhiễm trùng ngược dòng xảy ra, nó có thể dẫn đến một tải lượng giun lớn nhiễm nặng và đảm bảo cho quá trình nhiễm giun kim xảy ra tiếp tục hoặc không gây nên bất kỳ triệu chứng lâm sàng có ý nghĩa nào. Mặc dù có giới hạn, tuổi thọ giun kim trung bình là 13 tuần, chu trình tự nhiễm (autoinfection), hoặc nhiễm thông qua con đường hậu môn - miệng hoặc thông qua nhiễm trùng ngược dòng, nên thường là phải điều trị lặp lại với khoảng cách mỗi 2 tuần để loại bỏ nhiễm trùng hoàn toàn. Trứng và ấu trùng giun kim có thể khuyếch tán ở mọi nơi (chăn, chiếu, ghế ngồi, móng tay, đủng quần, khăn tay). Loài ký sinh trùng giun kim có tên khoa học là E. vermicularis hoặc thường gọi theo một từ đồng nghĩa thường gọi là pinworm ký sinh trong cơ thể người gây nên. Về sinh lý bệnh và chu kỳ sinh bệnh diễn ra như sau: E. vermicularis là một ký sinh trùng bắt buộc, người là vật chủ tự nhiên duy nhất, đường lây truyền là phân - miệng, thông qua các vật dụng quần áo, đồ chơi và đó cũng chính là các phương thức lây truyền thông thường nhất. Sau khi nuốt phải, trứng thường đẻ trứng trong tá tràng trong vòng 6 giờ. Giun trưởng thành sau đó khoảng chừng 2 tuần và có tuổi thọ khoảng 2 tháng. Giun trưởng thành thường ký sinh ở đoạn cuối của hổng tràng, hồi tràng, túi ruột thừa và đoạn đầu của đại tràng lên. Những con giun sống tự do trong thành ruột non và hiện nay có rất ít bằng chứng chứng minh có sự xâm nhập của của giun này vào các mô bình thường hoặc mô lành của cơ thể dưới những điều kiện bình thường. Giun cái di chuyển đến trực tràng, sau khi giao phối và nếu không bị tống ra theo phân thì sẽ tiếp tục di chuyển đến vùng đáy chậu (thường vào ban đêm), nơi đó chúng có thể đào thải ra khoảng 11.000-16.000 trứng. Trứng trưởng thành có khả năng gây nhiễm trong vòng 6-8 giờ và dưới điều kiện thuận lợi, tối ưu, khả năng gây nhiễm vẫn duy trì trong môi trường kéo dài đến 3 tuần.Vì thời gian ủ bệnh ngắn cho đến khi trứng gây nhiễm, các trứng này đào thải và nếu vô ý bằng cách nào đó chúng di chuyển và nằm dưới kẻ móng tay, từ đó dễ dàng đưa vào miệng hình thành phương thức lan truyền bệnh. Bệnh giun kim là bệnh giun đường ruột dễ lây, có chu kỳ phát triển không cần qua môi trường đất, không phụ thuộc vào yếu tố địa lý, khí hậu. Bệnh lây truyền chủ yếu qua đường hậu môn - tay - miệng. Bệnh phổ biến ở lứa tuổi nhà trẻ, trường mầm non trong điều kiện sống tập thể với môi trường kém vệ sinh. Giun kim thuộc ngành giun tròn, sống ký sinh chủ yếu ở manh tràng, đại tràng của người, với tính chất sinh học đặc thù, nhiễm giun kim lây lan trong cộng đồng mạnh hơn các loại giun khác ký sinh đường ruột. Nhiễm giun kim thường gặp ở trẻ em, với tỷ lệ nhiễm cao ở trẻ em độ tuổi đi học, đặc biệt rất cao ở tuổi nhà trẻ mẫu giáo, sống trong môi trường tập thể. Trẻ nhiễm giun kim kéo dài có thể chậm phát triển thể chất và trí tuệ, giảm khả năng học tập, bệnh có thể gây suy dinh dưỡng và nguy hiểm hơn khi giun kim di chuyển lạc chỗ có thể gây ra viêm ruột thừa, viêm cơ quan sinh dục và nhiều biến chứng khác. Hình 6
Loài ký sinh trùng giun kim có tên khoa học là Enterobius vermicularis hoặc thường gọi theo một từ đồng nghĩa thường gọi là pinworm ký sinh trong cơ thể người gây nên. Giun kim trưởng thành có kích thước nhỏ, trong đó kích thước con đực đo được 2-5mm và con cái là 8-13 mm. Giun kim đầu tiên sống trong mạnh tràng. Từ đó, các con cái di chuyển vào ban đêm, đẻ rất nhiều trứng 15.000 trứng trong vùngquanh hay vùng rìa (giữa hậu môn và bộ phận sinh dục). Trứng có thể lan rộng thông qua con đường phân miệng đến các vật chủ mới. Trứng dính ở vùng quanh rìa hậu môn có thể lây sang người khác ở cùng một nhà, có thể dẫn đến các thành viên trong gia đình nhiễm bệnh. Trứng đẻ ra trong tá tràng và ấu trùng trưởng thành trong suốt quá trình di chuyển đến đại tràng. May thay, hầu hết các trứng bị khử nước và làm khô trong vòng 72 giờ. Nếu không có quá trình tự nhiễm trên vật chủ, thì quá trình nhiễm trùng thường chỉ kéo dài 4-6 tuần và tự chấm dứt.Do có chu trình tự nhiễm đó, dù bạn đã sổ giun hay điều trị giun kim một lần duy nhất có thể cũng sẽ hình thành trỏ lại và chúng ta vân tiếp tục phát hiện giun kim ở hậu môn của trẻ em. Việc điều trị giun kim vì thế cũng khác biệt so với một số loại giun sán khác: Chăm sóc y tế:-Nhiều gia đình có bệnh nhân gặp phải các lời khuyên đôi khi chưa hợp lý từ thấy thuốcnhi khoa và cấp cứu hồi sức về vấn đề giun kim. Trong quá trình kê đơn thuốc, đưa ra lời khuyên và hướng dẫn điều trị là khâu rất quan trọng. Ngoài ra, hướng dẫn chăm sóc, rửa tay thường xuyên cho tất cả mọi người là biện pháp hiệu uqả ngăn ngừa lan truyền bệnh; -Vì nhiễm ký sinh trùng không triệu chứng của một số thành viên khác trong gia đình thường xảy ra, nên chúng ta phải điều trị đồng thời tất cả thành viên đó là một cách phòng và điều trị hợp lý nhất. Gia đình cũng nên thông báo cho các thành viên đó điều trị lặp lại vì khả năng tái nhiễm là có thể. -Xử lý giảm triệu chứng ngứa có thể dùng một số kem thoa chống ngứa tại vùng nhiễm. Nguyên tắc điều trị -Điều trị phải kết hợp chặt chẽ với phòng bệnh để tránh tái nhiễm; -Với các tập thể nhiễm giun kim cao cần điều trị hàng loạt và điều trị lại để tránh tái nhiễm; -Một số tác giả có ý kiến cho rằng vì giun kim có tuổi thọ ngắn so với một số giun khác (1,5-2 tháng trong ruột) nên nếu kiểm soát và chống lại bệnh tự nhiễm tốt, một cách tích cực thì có thể không cần dùng thuốc, bệnh cũng tự khỏi; -Con đường tác động về mặt sinh hóa học khác nhau trong cơ thể con người, do đó độc tính trực tiếp lên ký sinh trùng, giai đoạn trứng, ấu trùng cũng khác nhau tùy mức độ. Cơ chế tác động khác nhau theo loại thuốc; -Mebendazole hoặc albendazole được xem là thuốc lựa chọn khuyên dùng điều trị cho bệnh giun kim; Liều thứ 2 được chỉ định sau liều đầu khoảng 2 tuần giúp ngăn ngừa tái nhiễm giun kim; -Điều trị giun kim chui vào âm đạo âm hộ hiện vẫn còn đang tranh luận. Vấn đề này rất quan trọng và được xem là bệnh giun kim lạc chỗ (ectopic enterobiasis) vì nếu có sự tái hiện của giun kim nằm trong âm đạo âm hộ của những đứa trẻ em gái coi như là một ổ chứa tiềm tàng để giun kim không bao giờ chấm dứt. Có những trường hợp phải dùng đến nhiều liều mebendazole vẫn thất bại vì ổ chứa không bị điều trị triệt căn. Biện pháp phòng bệnh gồm có: Phát hiện bệnh và điều trị kịp thời, rửa hậu môn cho trẻ vào buổi tối trước khi đi ngủ và sáng sớm, không nên để trẻ mặc quần thủng đáy (hở đủng) hoặc không mặc quần, không để trẻ chơi lê la ở nền đất bẩn; giữ tay sạch, cắt ngắn móng tay, rửa tay sạch trước khi ăn và sau khi đi đại tiện. Tất cả các vật dụng như giường, chiếu, áo gối thường xuyên đưa đi phơi nắng (nếu có thể), cải tạo tập quán vệ sinh tốt tại nhà, vườn trẻ, trường mẫu giáo, mầm non, và nơi sống tập thể (công nông lâm trường, xí nghiệp có khu nội trú).
|