Độ nhạy, độ đặc hiệu và tính chính xác của chẩn đoán huyết thanh viêm gan siêu vi B và viêm gan siêu vi C sử dụng mẫu giọt máu khô (Dried blood spot-DBS)
Việc lấy mẫu máu vào mẫu giấy thấm chuyên dụng để đánh giá về các đặc điểm miễn dịch bệnh lý hoặc dịch tễ học di truyền trong nghiên cứu kháng thuốc sốt rét đã được áp dụng và biết đến từ 10 năm trở lại đây có hiệu quả. Công việc vừa tiện lợi, vừa cho ra các kết quả chính xác. Gần đây, các nhà nghiên cứu đã áp dụng công việc lấy máu giọt khô trên giấy thấm để đánh giá về viêm gan siêu vi B và C đang được xem xét, bước dầu cho kết quả rất tốt. Theo kết quả từ hai nghiên cứu đánh giá có hệ thống và phân tích Meta-analysis cho thấy giọt máu khô (DBS) là một xét nghiệm chẩn đoán bệnh do virus rất thuận tiện do lợi điểm về vận chuyển, xử lý và khâu hậu cần so với lấy mẫu máu con đường tĩnh mạch thông thường. Hiểu rõ hơn về hiệu suất và sự nhất quán của kết quả xét nghiệm huyết thanh đối với viêm gan siêu vi C (HCV) và viêm gan siêu vi B (HBV) từ mẫu giọt máu khô (DBS) là điều quan trọng để sử dụng rộng rãi phương pháp lấy mẫu này trong môi trường giới hạn vật tư y tế và công bố trong hướng dẫn của Tổ chức Y tế thế giới (WHO) năm 2017 về xét nghiệm HBV/HCV. Việc sử dụng các giọt máu khô (DBS) để vận chuyển sử dụng mẫu máu ngón tay là một lựa chọn thay thế hợp lý cho xét nghiệm sử dụng test chẩn đoán nhanh RDTs, đặc biệt là trong các cơ sở hạ tầng hạn chế. Ưu điểm của DBS là lấy máu mao mạch không đòi hỏi một nhân viên y tế được đào tạo bài bản và chi tiết, chỉ cần lấy lượng ít máu hơn so với lấy máu tĩnh mạch, không cần thiết bị phòng thí nghiệm cơ bản sử dụng điện như trong trường hợp lấy mẫu máu tĩnh mạch, vận chuyển và xử lý mẫu DBS không đòi hỏi kỹ năng cao hoặc dây chuyền lạnh, nguy cơ ô nhiễm mẫu bị giảm và việc sử dụng DBS có thể làm gia tăng xét nghiệm chẩn đoán và theo viêm gan trong một số nhóm nguy cơ dễ bị tổn thương nhất định.
Tổng quan này được tiến hành với các đánh giá có hệ thống về độ chính xác chẩn đoán của máy phát hiện HBV DNA và HCV RNA từ DBS. Về phương pháp, các nhà nghiên cứu tiến hành 2 nghiên cứu hệ thống và phân tích tổng hợp về độ chính xác chẩn đoán kháng thể HCV (HCV-Ab) và kháng nguyên bề mặt (HBsAg) từ mẫu giọt máu khô (DBS) so với mẫu máu tĩnh mạch. Đồng thời, tìm kiếm các nghiên cứu đánh giá độ chính xác chẩn đoán với DBS và tính nhất quán giữa lấy mẫu DBS và lấy mẫu tĩnh mạch trên MEDLINE, EMBASE, Global Health và thư viện Cochrane. Kết quả cho thấy nhìn chung, xét nghiệm HBsAg sử dụng DBS duy trì độ chính xác tốt so với xét nghiệm sử dụng huyết tương hoặc huyết thanh từ tĩnh mạch. Đối với độ chính xác chẩn đoán của HBsAg từ DBS so với máu tĩnh mạch, qua 19 nghiên cứu đã được đưa vào phân tích định lượng meta và 23 nghiên cứu trong một đánh giá tổng quan. Độ nhạy và độ đặc hiệu gộp lại tương ứng là 98% (95% CI: 95-99%) và 100% (95% CI: 99-100%). Đối với độ chính xác chẩn đoán của HCV-Ab từ DBS, ước tính gộp về độ nhạy và độ đặc hiệu lần lượt là 98% (CI 95%: 95-99%) và 99% (CI 95%: 98-100%). Chúng tôi đã tìm thấy độ chính xác chẩn đoán rất tốt và độ chính xác phát hiện HCV-Ab và HBsAg khi sử dụng mẫu DBS. Kết luận rằng xét nghiệm HCV-Ab và HBsAg sử dụng mẫu DBS so với lấy mẫu máu tĩnh mạch có liên quan với độ chính xác chẩn đoán. Tuy nhiên, nhìn chung vẫn còn giới hạn do không có mô hình chung nào được áp dụng và hầu hết các nghiên cứu không sử dụng mẫu tươi.
|