Sốt rét kháng thuốc lan nhanh ở Đông Nam Á
Một nghiên cứu mới trong tạp chí Lancet Infectious Diseases cho thấy rằng sự đề kháng với loại thuốc điều trị sốt rét ưu tiên ở Đông Nam Á đã bắt đầu nổi lên trong vài năm trước khi nó được phát hiện lần đầu tiên và có liên quan đến một chủng ký sinh trùng đang lan rộng khắp khu vực. Các chuyên gia nói rằng những phát hiện này gây ra những câu hỏi phiền toái về tương lai của các nỗ lực phòng chống sốt rét toàn cầu. Sự xuất hiện của một chủng KSTSR kháng lại liệu pháp kết hợp dựa vào artemisinin (ACTs)-loại thuốc điều trị sốt rét ưu tiên được khuyến cáo hiện nay là một mối quan ngại vì nó đe doạ làm hỏng những tiến bộ đã được tạo ra đối với ký sinh trùng gây bệnh sốt rét trong những năm gần đây. Theo Tổ chức Y tế thế giới, từ năm 2010 tỷ lệ mắc mới sốt rét toàn cầu đã giảm 18%, với mức giảm lớn nhất (48%) ở Đông Nam Á. Tỷ lệ tử vong do sốt rét trong khu vực đã giảm 44%. Thuốc ACTs đã góp phần vào sự thành công này. Năm 2013, các báo cáo lâm sàng đầu tiên về thất bại điều trị ở bệnh nhân sốt rét nhận dihydroartemisinin và piperaquine (một dạng ACTs) bắt đầu xuất hiện ở miền Tây Campuchia, chỉ 5 năm sau khi thuốc được sử dụng. Kể từ đó, tần suất điều trị thất bại ở bệnh nhân nhận loại thuốc điều trị kết hợp này đã tăng lên khắp Campuchia và các nước láng giềng trong vùng tiểu vùng sông Mêkông như Lào, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Mặc dù, nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng sự đề kháng với dihydroartemisinin-piperaquin (DHA-PPQ) ở tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (GMS) là do một chủng nào đó của ký sinh trùng Plasmodium falciparum, đây là nghiên cứu đầu tiên cung cấp một phân tích sâu về nguồn gốc dịch tễ học di truyền và lịch sử của sự bùng phát . Sự lây lan của chủng kết hợp đang được theo dõi Trong nghiên cứu, nhóm nghiên cứu do Roberto Amato, Viện nghiên cứu Wellcome Sanger, phân tích dữ liệu chuỗi trình tự bộ gen trên 1.492 mẫu P. falciparum từ 11 nơi nghiên cứu trên khắp Đông Nam Á, bao gồm 464 mẫu được thu thập ở miền tây Campuchia từ năm 2007-2013. Dihydroartemisinin- piperaquine được giới thiệu như là thuốc điều trị sốt rét ưu tiên ở Campuchia vào năm 2008 và bất chấp sự xuất hiện kháng artemisinin ở miền tây Campuchia, thuốc kết hợp này ban đầu có hiệu quả, mặc dù việc hiệu quả có chậm lại. Dữ liệu giải trình tự bộ gen cho thấy hai chỉ dấu (markers) di truyền của kháng dihydroartemisinin-piperaquine là nổi bật trong các mẫu và quan sát thấy trong toàn bộ khu vực. Tổng số 689 trong số 1.492 mẫu (46%) mang đột biến gen kelch13, gen gây kháng artemisinin và 199 trong số 1.465 mẫu có gen khuyếch đại hay đột biến Plasmepsin 2 và 3, một chỉ dấu cho sự đề kháng với piperaquin. Nhưng những đột biến này phổ biến hơn trong các mẫu từ phía tây Campuchia. Sau đó, các nhà nghiên cứu tìm kiếm các mẫu mà có các chỉ dấu này kết hợp, xác định 154 ký sinh trùng đề kháng với dihydroartemisinin-piperaquin. 91% những mấu này(140/154) kết hợp một chủng có đột biến gen Kelch13 ( được gọi là chủng KEL1) nổi trội với một chủng có các đột biến khuếch đại Plasmepsin 2 và 3 ( được gọi là chủng PLA1). Phân tích sâu hơn cho thấy rằng những chủng này xuất hiện cùng nhau vào năm 2008 ngay sau khi liệu pháp dihydroartemisinin-piperaquine được đưa vào sử dụng. Sự kết hợp của chủng KEL1 và PLA1 ban đầu chỉ có ở phía tây Campuchia, nhưng nó đã tăng lên theo thời gian, từ 16% (5 trong số 31) mẫu trong năm 2008 tới 68% (25 trong số 37) mẫu vào năm 2013. Đến năm 2012- 2013, các nhà nghiên cứu nhận thấy, các ký sinh trùng kháng thuốc đã di chuyển đến miền bắc Campuchia và nước láng giềng Lào. Các nhà nghiên cứu suy đoán rằng ký sinh trùng sốt rét kháng dihydroartemisinin-piperaquin xuất hiện ở đông bắc Thái Lan và Lào trong giai đoạn 2014-2015 và Việt Nam vào năm 2016 có thể là sự xuất hiện đồng thời của chủng đồng nhiễm KEL1/PLA1. Amato cho biết nghiên cứu đã cung cấp những phân tích toàn diện nhất cho tới nay về ký sinh trùng gây ra bệnh sốt rét kháng thuốc ở Campuchia", Amato nói trong một thông cáo báo chí của Viện Wellcome Sanger. Nghiên cứu cho thấy rằng sự đề kháng với liệu pháp kết hợp ACTs xuất hiện gần như ngay khi thuốc điều trị này được giới thiệu như là liệu pháp chính thức đầu tiên và ký sinh trùng lây lan đều đặn và mạnh mẽ sau đó". Amato và các cộng sự của mình lưu ý rằng mặc dù sự kháng thuốc artemisinin đã cao ở miền tây Campuchia vào năm 2008, nhưng sự đề kháng chủ yếu là do một loạt các đột biến trên gen Kelch13 khác nhau vẫn còn ở tại chỗ. Tuy nhiên, sự lây lan nhanh chóng của một chủng đồng nhiễm KEL1/PLA1, mà họ so sánh với một dạng ung thư hiếu chiến, cho thấy ký sinh trùng thuộc chủng đó đang tăng cường năng lực sinh học. Tác động đến các nỗ lực phòng chống sốt rét Câu hỏi lớn là điều này có ý nghĩa gì đối với tính hiệu quả của ACTs ở Đông Nam Á và các vùng sốt rét lưu hành khác. Theo các chuyên gia về sốt rét, Didier Menard, Viện nghiên cứu Pasteur, sự để kháng với artemisinin hiện đang giới hạn ở Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng, nhưng nếu lây lan sang châu Phi- nơi chiếm tới 90% số ca sốt rét thì sẽ dấn đến các hậu quả khôn lường. Menard và cộng sự nói rằng những phát hiện này nhắc nhở họ về cách thức mà sốt rét kháng chloroquin phát triển và lây lan trên toàn cầu. "Các kết quả của nghiên cứu này gợi nhớ lại sự tiến hóa của kháng chloroquin, trong đó các alen của chủng Plasmodium .falciparum (Pfcrt) xuất hiện ở Đông Nam Á trước khi một alen (CVIET) cuối cùng lan sang châu Phi, dẫn đến hàng triệu người chết. Rõ ràng, kịch bản này nên tránh với liệu pháp điều trị kết hợp artemisinin. Vào tháng 02 năm 2017, một nhóm các nhà nghiên cứu viết trong Tạp chí New England Journal of Medicine báo cáo trường hợp một người đàn ông Trung Quốc đã mắc phải một chủng P. falciparum kháng artemisinin trong khi đang làm việc tại Guinea xích đạo. Đây là trường hợp sốt rét kháng artemisinin đầu tiên được biết đến ở châu Phi. Amato và các đồng nghiệp của ông nói tình hình hiện nay ở Đông Nam Á rất mong manh, sốt rét vẫn có thể điều trị được và họ cho thấy hiệu quả của ACTs ở Đông Nam Á có thể được duy trì thông qua quản lý liệu pháp điều trị bằng dihydroartemisinin-piperaquin một cách có chiến lược và có thể sử dụng artesunate-mefloquine như một loại ACTs khác. Tuy nhiên, không chắc chắn về cách mà ký sinh trùng sẽ phản ứng với các can thiệp mới và mối quan tâm với chiến lược đó là các liệu pháp chuyển đổi có thể được sử dụng tiếp theo bởi sự gia tăng nhanh chóng tương tựtới liệu pháp điều trị mới. Tuy nhiên, nghiên cứu cho thấy các nhà khoa học hiện nay có các công cụ để theo dõi sự đột biến gen trong sốt rét và đáp ứng nhanh hơn để ngăn chặn sự lan rộng của kháng thuốc. "Với việc sử dụng các công nghệ thích hợp và hành động phối hợp, các vụ bùng phát kháng thuốc sẽ không thể không được chú ý trong tương lai và nguy cơ của tình trạng khẩn cấp về sức khoẻ toàn cầu phải được được giảm", nhưng Chris Plowe, giám đốc của Viện Y tế toàn cầu Duke và là một chuyên gia về bệnh sốt rét- người đã nghiên cứu về bệnh này ở châu Á và châu Phi tin rằng chúng ta cần giám sát gen có độ phân giải cao hơn. Vì các chủng kháng thuốc phát triển ở khu vực Mê Kông và sau đó lan sang những nơi khác nên Plowe cho rằng các tổ chức y tế toàn cầu và các nước trong khu vực cần phải đẩy mạnh việc loại trừ hoàn toàn sốt rét. Nghiên cứu này và các nghiên cứu trước đó nói với chúng ta là cần phải đẩy mạnh để không còn ca bệnh sốt rét trong khu vực, Plowe nói trong một email từ Myanmar. Điều cần làm là loại trừ sốt rét ở khu vực tiểu vùng sông Mê Kông bằng cách sử dụng tất cả các công cụ hiện có trong tay.
|