TRANG CHỦ | Thứ 2, ngày 25/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Nghiên cứu với 6 nghiên cứu nhỏ mù đôi, ngẫu nhiên, thử nghiệm chứng-giả dược (tiến hành mỗi nghiên cứu tại Tanzania, Mozambique, Gabon và 3 cái ở Ghana) đánh giá hiệu lực của biện pháp IPTi bằng thuốc sulfadoxine-pyrimethamine. Trong tất cả thử nghiệm, IPTi hoặc placebo được cho trẻ emcungf thời gian trẻ được tiêm vaccine theo đúng chương trình tiêm chủng quốc gia và WHO. Các dữ liệu từ các thử nghiệm cho tỷ lệ mắc mới sốt rét, nguy cơ thiếu máu (packed-cell volume <25% hoặc Hb < 80 g/L), tỷ lệ nhập viện và tác dụng có hại của thuốc trên trẻ đến 12 tháng tuổi là được phân tích lại theo phân loại hiệu quả chuẩn và giai đoạn thời gian. Các phân tích được cải tiến để điều trị, tất cả trewr đều được nhận ít nhất 1 liều IPTi hoặc giả dược. 6 thử nghiệm cung cấp dữ liệu cho 7930 trẻ (IPTi, n = 3.958; placebo, n = 3.972). IPTi có hiệu lực bảo vệ là 30.3% (95% CI 19.8-39.4, p < 0.0001) chống lại các ca sốt rét lâm sang, 21.3% (8.2-32.5, p = 0.002) chống lại nguy cơ thiếu máu, 38.1% (12.5-56.2, p = 0.007) ngăn được nhập viện với ký sinh tùng dương tính trong máu và 22.9% (10.0 - 34.0, p = 0.001) chống lại các nguyên nhân nhập viện (chống ở đây có nghĩa là ngăn ngừa được). Có 56 ca tử vong trong nhóm dùng IPTi so với 53 trường hợp trong nhóm giả dược (rate ratio 1.05, 95% CI 0.72-1.54, p = 0.79). Một ca chết, có khả năng liên quan đến IPTi vì xảy ra 19 ngày sau điều trị liều và có thể có nhiễm trùng máu đi kèm trong ca này. 4 trong số 676 ca nhập viện không tử vong ở nhóm IPTi cho rằng có liên quan đến điều trị nghiên cứu so với 5 trong số 860 trong nhóm giả dược. Không có ca nào trong 3 ca bị phản ứng da nặng trong nhóm dùng IPTi. Nói chung, IPTi bằng thuocs sulfadoxine-pyrimethamine là an toàn và hiệu quả trong những vùng có sốt rét lan truyền và can thiệp này là rất tốt góp phần quan trọng trong cong cuộc phòng chống sốt rét. 3. Những thông tin mới trong nghiên cứu sốt rét do Plasmodium vivax. Nghiên cứu trên được tiến hành bởi nhóm gồm các nàh nghiên cứu Ivo Mueller, Mary R Galinski, J Kevin Baird, Jane M Carlton, Dhanpat K Kochar, Pedro L Alonso, Hernando A del Portillo, đang công tác tại Viện nghiên cứu y học Groka, Papua New Guinea; Trung tâm vaccine Emory, Trung tâm nghiên cứu các loài linh trưởng quốc gia Yerkes, và trung tâm nghiên cứu phát triển y học và bệnh truyền nhiễm, đại học Emory, Atlanta, Mỹ; Trung tâm nghiên cứu lâm sàng Eijkman–Oxford, Jakarta, Indonesia; Trung tâm y học nhiệt đới Nuffield, đại học Oxford, Anh; khoa ký sinh trùng y học, đại học New York, Mỹ; Trung tâm nghiên cứu và phát triển y học Kothari, Rajasthan, Ấn Độ; Trung tâm nghiên cứu sức khỏe quốc tế Barcelona, bệnh viện Barcelona, Tây Ban Nha.
Các tiến bộ về mặt kỹ thuật trong giải trình tự bộ gen của P vivax và lời kêu gọi gần đây loại trừ sốt rét trên toàn thế giới đã nhấn mạnh thêm tầm quan trọng cho lĩnh vực sốt rét P. vivax và xem nó như một vấn đề y tế công cộng quan trọng. Tuy nhiên, vì chu kỳ sinh học của loài ký sinh trùng quan trọng này thì chúng ta thật khó để làm thế nào gián đoạn sự lan truyền của P. vivax, các chuyên gia đồng ý rằng các phương pháp sẵn có để ngăn ngừa và điều trị nhiễm P. vivax là chưa đủ loại trừ. Do đó, một nhu cầu khẩn thiết là phát triển các công cụ mới và chiến lược mới là những ưu tiên hàng đầu trong phòng chống P. vivax. Các bước tiến bộ trong phát triển các biện pháp như thế nhằm tăng sự hiểu biết chu kf sinh học, cơ chế bệnh sinh và dịch tễ học của P. vivax. Trong tài liệu này chủ yếu đề cập đến P. vivax, tập trung vào xác định các khoảng trống kiến thức từ lâu chúng đã gây trở ngại lớn cho việc loại trù bệnh trong quần thể người. 4. Phân tích Proteome của các kháng nguyên tiết ngoại bào P. falciparum ở thể vô tính biểu hiện một nhóm protein cùng với vai trò điều hòa miễn dịch và phát tín hiệuNhóm tác giả Meha Singh, Paushali Mukherjee, Krishnamoorthy Narayanasamy, Reena Arora, Som Dutta Sen, Shashank Gupta, Krishnamurthy Natarajan và Pawan Malhotra đang công tác tại Nhóm nghiên cứu sốt rét, Trung tâm nghiên cứu công nghệ di truyền và công nghệ sinh học quốc tế tại Aruna Asaf Ali Marg, New Delhi, Ấn Độ và Trung tâm ứng dụng gen học, Okhla Industrial Estate, New Delhi, Ấn Độ đồng tiến hành. Kết quả nghiên cứu cho biết: Mối liên quan của ký sinh trùng và các vật chủ của chúng cùng tiến hóa cao dường như bao gồm sự điều hòa của các tín hiệu miễn dịch của vật chủ, dù cơ chế phân tử liên quan đến sự tác động lẫn nhau giữa ký sinh trùng-vật chủ vẫn còn chưa hiểu thấu. Đặc điểm của các gen chính và các protein cùng nguồn gốc có liên quan đến sự tương tác giữa vật chủ-ký sinh trùng nên đã dẫn đến hiểu biết tốt hơn về hiện tượng sinh học nôi tại. Ký sinh trùng sốt rét Plasmodium falciparum có liên quan đến hàng trăm protein với các hồng cầu vật chủ. Tuy nhiên, các protein được hoạt hóa bởi ký sinh trùng nội bào thể vô tính bên dưới màng tế bào hồng cầu vẫn cho chưa rõ. Trong đây có 2 phương pháp bổ sung, điện di trên gel electrophoresis/MS và LC-MS/MS, để kiểm tra các kháng nguyên tiết ngoại bào trong giai đoạn thể vô tính của P. falciparum. Xác định 27 kháng nguyên mới sinh ra bởi P. falciparum trong môi trường nuôi cấy có những gen trên nhiễm sắc thể mang tính đa hình cao cho thấy có yếu tố xác định và mã hóa đa dạng cho xác định kháng nguyên. Miễn dịch định vị cho 4 loại protein tiết mới xuất ra sau khi màng hồng cầu nhiễm. Trong số này, đặc tính chức năng sơ bộ của 2 protein mới của ký sinh trùng PfSEL1 và PfSEL2 biểu hiện cơ chế điều hòa nguwowic của bề mặt tế bào phát tín hiệu phân tử trong các tế bào vật chủ. Một protein kinase (PfEK) khác và protein phosphatase (PfEP) cũng tìm thấy như vậy. Các protein phosphorylate/dephosphorylate đặc hiệu cho ký sinh trùng trong canh cấy ngoại bào. Nghiên cứu này là cần thiết tìm hiểu về một kháng nguyên tiết ngoại bào của ký sinh trùng mà trong đó rất cần thiết cho sự phát triển của các ký sinh trùng cũng như hứa hẹn cho ra những thuốc chống sốt rét mới từ nghiên cứu phân tử này. 5. Tình trạng mức độ nặng của sốt rét trên những bệnh nhân nhiễm giun truyền qua đất Nhóm tác giả Abraham Degarege, Abebe Animut, Mengistu Legesse và Berhanu Erko, đang công tác tại đại học Bahir, Bahir Dar, Ethiopia và Viện nghiên cứu sinh bệnh học Aklilu Lemma, đại học Addis Ababa, Ethiopia nhằm đánh giá khả năng tác động bệnh giun truyền qua đất lên độ nặng của sốt rét, mật độ KSTSR, thời gian làm sạch KSTSR và tỷ lệ giảm ký sinh trùng Plasmodium sau khi điều trị bằng thuốc sốt rét. 458 bệnh nhân sốt rét tình nguyện đến bệnh viện Alaba Kulito, phía nam Ethiopia, đẻ điều trị từ tháng 11-12 năm 2007 đưa vào trong nghiên cứu này. Các lam máu được làm giọt mỏng và giọt đặc để xác địnhk ký sinh trùng và chủng loại Plasmodium, các mẫu phân thu thập trên các bệnh nhân này được chẩn đoán để tìm bệnh giun sán, sử dụng kỹ thuật Kato-Katz. Nồng độ Hb được đo theo máy quang phổ kế xách tay (HemoCue HB 201). Sạch ký sinh tùng kiểm tra 3 ngày sau điều trị. Tỷ lệ đồng nhiễm sốt rét và giun, chủ yếu là giun móc, giun đũa, giun tóc lần lượt là 9.6%, 6.3%, 2.1%. Khoảng 8.1% trong số các đối tượng nghiên cứu bị sốt rét nặng, ác tính. Cường độ nhiễm giun móc cho thấy tương quan dương tính với mật độ KSTSR (F = 3.510, P = 0.033). Nhiễm giun truyền qua đất có tương quan âm tính với các triệu chứng của sốt rét ác tính (OR = 0.317, 95% CI = 0.315–0.86, P = 0.01), nhưng một tỷ lệ nhỏ (4.5%) bệnh nhân sốt rét có đồng thời một hoặc nhiều giun bị SRAT. Chỉ có vài bệnh nhân (2.3%) đồng nhiễm với bệnh giun truyền qua đất. Thử nghiệm nghiên cứu này chỉ ra giun truyền qua đất có góp một phần nhỏ vào dộ nặng của sốt rét khi bị đồng nhiễm đồng thời. Thử nghiệm cũng chỉ ra giun truyền qua đất không tác động có ý nghĩa về tỷ lệ làm sạch Plasmodium falciparum và Plasmodium vivax khi điều trị với thuốc sốt rét. Tiểu cầu, sốt và ký sinh trùng PlasmodiaCác nghiên cứu trước đây cho thấy hiện tượng giảm tiểu cầu (thrombocytopenia) là một chỉ điểm tiên lượng xấu trên bệnh nhân sốt rét và nhóm tác giả McMorran và cộng sự chỉ ra quá trình các hồng cầu nhiễm ký sinh trùng P. falciparum làm tăng tương tác với tiểu cầu dẫn đến chết cho ký sinh trùng - cho thấy vai trò của tiểu cầu như một hiệu ứng miễn dịch bẩm sinh (sự hoạt hóa tiểu cầu trong sốt rét do P. f . Đây là một phát hiện mới và tác dộng đó cần xem xét, với một tỷ lệ tốt đa gây chết cho ký sinh trùng khoảng 65%. Tuy nhiên, giờ đây, khả năng gây chết này được nhân lên trong chuột đã bị giảm tiểu cầu theo nghiên cứu của McMorran và cộng sự báo cáo. Các con chuột này có 1/10 số tiểu cầu trong các con chuột hoang dại, nhờ sự đứt đoạn đồng đẳng của gen mã hóa cho yếu tố sinh tiểu cầu (thrombopoietic receptor c-Mpl) và chúng đã làm tăng tỷ lệ tử vong sau khi thử với P. chabaudi (một loại ký sinh trùng khác với P. falciparum, nhưng gây nhiễm cho các loài gặm nhấm). Các tác giả đã loại trừ nguy cơ tiềm tàng và yếu tố nhiễu như một yếu tố gây tử vong, gồm gia tăng xuất huyết, tan máu và giảm sinh hồng cầu hoặc sinh cytokine hay lymphocyte. Mặc dù các nguyên nhân khác là chưa rõ ràng nên cũng chưa thể loại trừ. KSTSR trong máu bị suy yếu trong mô hình nghiên cứu này của McMorran và cs., và tái lại chỉ sau 11 ngày nhiễm; giảm tiểu cầu có phát hiện trong giai đoạn này. Ngoài ra, aspirin được biết là ức chế chức năng tiểu cầu và tương quan liều đến 1.75g/ ngày trên một người nặng 70kg, aspirine làm tăng nồng độ KSTSR P. chabaudi trong máu chuột và thu lại tiểu cầu từ các nguwif tình nguyện đã uống aspirin (khoảng 300mg/ ngày) trong 1 tuần cho thấy thất bại trong khâu tiêu diệt các hồng cầu nhiễm P. falciparum trên thử nghiệm ex vivo. Vì thế, những người bị sốt rét tránh dùng aspirin vì nguy cơ giảm tiểu cầu ? Aspirin thường sử dụng điều trị sốt ở trẻ emsống trong vùng lan truyền sốt rét. Thực hành này tiếp tục cho dù gần đây thuốc bị cấm dùng để điều trị cho bệnh nhi bị sốt tại các quốc gia phát triển vì có liên quan đến hội chứng Reye - một tình trạng giống như SRAT thể não. Ngoài ra, các “cơn lành tính” của SRAT xảy ra ở South Pacific có vẻ nhiểu hơn châu Phi mà có liên quan đến sử dụng aspirin ít hơn. Liều “nhi khoa” của aspirin (75-100mg/ ngày) giờ đây sử dụng rất phổ biến trong vấn đề bảo vệ tim mạch trên người lớn tại các quốc gia phát triển. Acetaminophen, cũng là một chất ức chế cyclooxygenase được dùng trong một số cộng đồng như thuốc hạ sốt và hiệu quả cắt sốt rất tốt tương tự như cơ chế phân tử của aspirin. Tuy nhiên, acetaminophen đắt tiền hơn aspirin và có nguy cơ tiềm tàng gây độc cho gan. Một vấn đề lớn mà chưa có bằng chứng điều trị về mặt dược học có tác động đến sốt trên bệnh nhân sốt rét, điều đặc biệt là chưa có một đánh giá so sánh nào một cách hoàn hảo giữa hiệu quả của aspirin và acetaminophen. Do vậy, dùng các thuốc trên nên thận trọng trong các trường hợp bệnh nhân bị sốt rét. Một lý do khác cần thận trọng về can thiệp làm tăng tieur cầu trên các bệnh nhân mắc sốt rét là mối tương tác của tiểu cầu với hồng cầu bị nhiễm KSTSR có thể làm trầm trọng thêm SRAT. Một nghiên cứu trên mô hình chuột nhiễm của tác giả Srivastava và cộng sự chỉ ra rằng các hồng cầu bị nhiễm bởi phân lập P. berghei tương tác với các tiểu cầu hoạt hóa, dẫn đến tiết chemokine platelet factor 4 (Pf4, hay Cxcl4); ngược lại Pf4, làm nặng thêm cho SRAT. Ngoài ra, tương tác giữa tiểu cầu-hồng cầu có thể hỗ trợ cho quá trình sinh hồng cầu, đặc biệt trên các bệnh nhân rối loạn chức năng nội bào. Các microparticle của tiểu cầu nồng độ cao có liên quan đến hôn mê trên bệnh nhân như thế. Do đó, dù một hay nhiều cũng nên cảnh báo về P. berghei hay P. chabaudi trên chuột có thể tiên đoán hậu quả của nhiễm P. falciparum trên các bệnh nhân, sự ức chế tiểu cầu trên các bệnh nhân này có thể thỏa đáng. Trong mối quan tâm này, có bằng chứng liều thuốc aspirin có thể đánh bại rối loạn tiểu cầu? Sốt rét ác tính do P. vivax: Một báo cáo hàng loạt ca từ |
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
|
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |