Home TRANG CHỦ Thứ 6, ngày 22/11/2024
    Hỏi đáp   Diễn đàn   Sơ đồ site     Liên hệ     English
IMPE-QN
Web Sites & Commerce Giới thiệu
Web Sites & Commerce Tin tức - Sự kiện
Finance & Retail Hoạt động hợp tác
Hợp tác trong nước
Hợp tác quốc tế
Dân tộc thiểu số
Dự án Quỹ toàn cầu PCSR
Quân dân y kết hợp
Web Sites & Commerce Hoạt động đào tạo
Web Sites & Commerce Chuyên đề
Web Sites & Commerce Tư vấn sức khỏe
Web Sites & Commerce Tạp chí-Ấn phẩm
Web Sites & Commerce Thư viện điện tử
Web Sites & Commerce Hoạt động Đảng & Đoàn thể
Web Sites & Commerce Bạn trẻ
Web Sites & Commerce Văn bản pháp quy
Số liệu thống kê
Web Sites & Commerce An toàn thực phẩm & hóa chất
Web Sites & Commerce Thầy thuốc và Danh nhân
Web Sites & Commerce Ngành Y-Vinh dự và trách nhiệm
Web Sites & Commerce Trung tâm dịch vụ
Web Sites & Commerce Thông báo-Công khai
Web Sites & Commerce Góc thư giản

Tìm kiếm

Đăng nhập
Tên truy cập
Mật khẩu

WEBLINKS
Website liên kết khác
 
 
Số lượt truy cập:
5 4 1 7 8 9 9 7
Số người đang truy cập
6 1 4
 Hoạt động hợp tác Hợp tác trong nước
Tiến bộ y học trong nhiều lĩnh vực chuyên ngành ở nước ta

Một giải pháp cứu đôi chân người đái tháo đường

Loét bàn chân đái tháo đường (ĐTĐ) không đáng ngại nếu được phát hiện sớm, điều trị kịp thời và đúng cách - một thông điệp được đưa ra tại Hội nghị Nội tiết & Đái tháo đường toàn quốc lần thứ 6 vừa diễn ra tại Huế. Đó là một giải pháp mới giúp bệnh nhân ĐTĐ bảo tồn đôi chân của mình chỉ sau 8 tuần điều trị. Đây được xem là bước đột phá mới của y học hiện đại, đã “giải phóng” được nỗi lo của cả bệnh nhân và thách thức y khoa với bác sĩ.

Biện pháp mới bảo tồn bàn chân cho bệnh nhân ĐTĐ nặng

Trước đây, khả năng rủi ro phải phẫu thuật cắt đoạn chi ở bệnh nhân ĐTĐ rất cao vì vết loét bàn chân không được cung cấp đủ máu, vùng tổn thương vừa không được cung cấp đủ chất dinh dưỡng, ôxy, vừa không có đủ các tế bào máu như bạch cầu đến để tấn công vi khuẩn và các tế bào chết cũng không được “làm sạch” kịp thời, cùng với đường máu cao ức chế hoạt động bạch cầu, làm giảm hiệu quả của các phản ứng chống viêm nhiễm…, nên vết thương hoặc mỏm cắt dễ bị nhiễm trùng và khó liền.

Có giải pháp nào hữu hiệu bảo vệ bàn chân cho bệnh nhân ĐTĐ? Tại Hội nghị Nội tiết & Đái tháo đường toàn quốc lần thứ 6 diễn ra từ ngày 10-12/5 tại Huế, GS. Arístides García Herrera, chuyên gia bàn chân ĐTĐ và can thiệp mạch máu, Đại học Matanzas - Cuba đã báo cáo một giải pháp mới bảo tồn chân, giảm tỉ lệ phải cắt đoạn chi cho bệnh nhân ĐTĐ. Các kết quả nghiên cứu lâm sàng quốc tế cho thấy, tỉ lệ thành công của giải pháp này là 98% trong 8 tuần điều trị. Phương pháp mới này chính là yếu tố phát triển biểu bì tái tổ hợp của người được dùng tiêm ngoại biên và bên trong vết loét, được nghiên cứu từ giữa năm 1994 tại Trung tâm Công nghệ di truyền & công nghệ sinh học ở thủ đô Havana.

Nguyên tắc hoạt động của yếu tố phát triển của biểu bì tái tổ hợp người là kích thích sự tăng sinh các nguyên bào sợi, tế bào sừng và tế bào nội mô mạch máu, do đó tăng sinh mô hạt có ích và tăng tái tưới máu tại chỗ. Quá trình điều trị loét bàn chân ĐTĐ sẽ trở nên đơn giản hơn, giảm số lần phẫu thuật, rút ngắn thời gian liền thương, giảm thời gian nằm viện, giảm số lần tái phát và rủi ro cắt đoạn chi. Phương pháp này cần phối hợp với phương pháp chăm sóc thường quy cho loét bàn chân ĐTĐ.

Kỹ thuật mới của y học thế giới được ứng dụng lâm sàng ở nước ta

Theo GS. William Marston - chuyên gia phẫu thuật mạch máu và bàn chân ĐTĐ, Đại học Y khoa Bắc Carolina: Với yếu tố phát triển biểu bì tái tổ hợp của người, bác sĩ có thể không cần can thiệp phẫu thuật hay dùng biện pháp can thiệp khác mà vẫn cải thiện khả năng điều trị, tỉ lệ thành công cao. Việt Nam là quốc gia đầu tiên trong khu vực Đông Nam Á áp dụng yếu tố phát triển biểu bì tái tổ hợp của người vào điều trị cho bệnh nhân ĐTĐ.

Các chuyên gia cho biết, yếu tố biểu bì tái tổ hợp của người là một protein tái tổ hợp được đông khô và giữ lạnh, được dùng để tiêm vào các bờ và đáy vết loét bàn chân do ĐTĐ có tác dụng kích thích tái tạo mô hạt, tăng tái tưới máu tại vết thương nên có thể làm lành vết thương một cách liên tục và ổn định; làm giảm tái phát loét bàn chân ĐTĐ, giảm số lần cắt lọc và can thiệp ngoại khoa, rút ngắn thời gian lành vết thương.

Loét chân do đái tháo đường.

Về chỉ định điều trị, bệnh nhân loét bàn chân do ĐTĐ nặng, phân độ 3-4 theo Wagner từ 18 tuổi trở lên (không có thai và không có bệnh lý nguy kịch kèm theo) đều có thể được điều trị bằng yếu tố phát triển biểu bì tái tổ hợp của người trong tối đa là 8 tuần. Bệnh nhân loét bàn chân do ĐTĐ có thể tới khám và điều trị tại các BV có đơn vị chuyên sâu bàn chân như BV Chợ Rẫy, BV Nhân Dân 115 TP.HCM; BV Hòe Nhai, BV Nội tiết TW, BV Bạch Mai, Hà Nội. Bước đầu triển khai áp dụng lâm sàng trên 33 bệnh nhân tại BV Nội tiết TW và BV Chợ Rẫy đã cho thấy hiệu quả và tính an toàn cao. Bệnh nhân ít tuổi nhất trong đợt này là 24 tuổi và cao tuổi nhất là 76 tuổi đều đáp ứng tốt và có hơn 75% mô hạt được hình thành tại vết loét với thời gian trung bình là 24,7 ngày.   

“Bắc cầu” tủy sống: Thật hay mơ?

Não bộ của con người không thể chỉ huy cơ quan vận động (xương - cơ - khớp) nếu như không có tủy sống. Hầu như những trường hợp liệt tủy, đứt tủy thì nạn nhân đều bị mất chức năng vận động chân tay. Và, ý tưởng “bắc cầu tủy sống” ra đời mang hy vọng giúp những nạn nhân này có thể phục hồi chức năng vận động...

Nguyên tắc sinh học

Nguyên tắc cấu trúc của hệ thần kinh trung ương bao giờ cũng gồm não bộ và tủy sống. Não bộ là sự tiến hóa cao cấp của loài người, còn tủy sống là cấu trúc mang tính tự động của động vật. Dù muốn hay không thì hoạt động điều phối của hệ thần kinh không thể đi ra khỏi quỹ đạo của những cấu trúc này.

Não bộ của con người dù có cao cấp, thông minh và tài giỏi thế nào đi chăng nữa thì nó không thể chỉ huy cơ quan vận động nếu như không có tủy sống. Tủy sống là trung khu tiếp nối thần kinh và dẫn truyền thần kinh đường dài. Không có tủy sống, xung động thần kinh đến ngoại vi sẽ bị suy yếu dần và không còn đủ khả năng hoạt hóa hệ thống cơ. Nhưng cho dù tủy sống có thể khuếch đại đến bao nhiêu thì nó không thể tự hoạt động nếu như không có sự chỉ huy của não bộ. Tủy sống không ra được mệnh lệnh xử lý thông tin cao cấp. Nó chỉ thực hiện những chức năng tự động và phản xạ mà thôi. Cho nên hầu như những trường hợp liệt tủy, đứt tủy thì nạn nhân đều bị mất chức năng vận động ở những vùng tương ứng. Đó là vì khâu dẫn truyền vận động bị mất một bộ phận quan trọng.

Xung động thần kinh được tạo ra ở não bộ nhưng không thể truyền đến chân tay do mất khâu tiếp nối tủy. Hiện nay, y học hiện đại chưa thể tìm ra được giải pháp nào nối ghép tủy thành công và gần như không có cơ may cho người bị đứt đoạn tủy.

Đây thực sự là một điều rất đáng suy nghĩ. Bởi trong trường hợp này não bộ hoàn toàn bình thường và khả năng ra mệnh lệnh hoàn toàn chuẩn xác. Nếu như có một cách nào đó truyền trực tiếp xung tác từ não bộ đến thẳng cơ thì có thể tạo ra hy vọng cho những nạn nhân không may. Và ý tưởng “bắc cầu tủy sống” được triển khai

Thử làm trái tự nhiên

Ý tưởng “bắc cầu tủy sống” là một ý tưởng vô cùng mới mẻ và táo bạo. Bởi vì như vậy nó hoàn toàn đi chệch khỏi nguyên tắc tự nhiên. Con người ta có thể hoàn toàn vận động bình thường mà không cần sự ráp nối thần kinh giữa não bộ và tủy sống. Chỉ cần tạo ra một kết nối trực tiếp, là xung tác thần kinh từ não bộ được truyền thẳng đến cơ.

“Bắc cầu tủy sống” thực chất là một kết nối thần kinh nhân tạo giữa não bộ và hệ thống cơ trên chân tay. Sự kết nối nhân tạo này sẽ phục hồi vận động bàn tay, vốn rất cần thiết cho những bệnh nhân bị liệt do đứt đoạn tủy. Mặc dù chưa được áp dụng trên người nhưng ý tưởng này đã thành công trên khỉ và mở ra một hướng mới đi ngược lại tự nhiên.

 

Thiết bị thần kinh giả được thử nghiệm trên khỉ.

 

“Bắc cầu tủy sống” là ý tưởng khoa học sáng tạo và táo bạo của các nhà khoa học thuộc Đại học Chicago (bang Illinois, Mỹ). Thực hiện kỹ thuật “bắc cầu tủy sống” là một thiết bị ngoại vi hoạt động dựa trên nguyên tắc “tương tác não bộ - máy móc”, gọi tắt là “thiết bị thần kinh giả”. Đây là một thiết bị công nghệ có kích thước khá nhỏ, có thể đặt vào trong cơ cánh tay. Nó có hai hệ thống điện cực và một bộ vi xử lý trung tâm. Một hệ thống điện cực não bao gồm rất nhiều điện cực có thể thu nhận tín hiệu thần kinh của 100 tế bào não và chúng sẽ thực hiện chức năng điều khiển bàn tay.

Một hệ thống điện cực khác là hệ thống điện cực cơ bao gồm các điện cực nhỏ được cắm trực tiếp vào cơ. Các điện cực này sẽ truyền tín hiệu thần kinh từ điện cực não tới cơ và khiến cho cơ co. Bộ vi xử lý có nhiệm vụ khuếch đại tín hiệu thần kinh thu nhận được từ não. Nó nằm giữa và kết nối hệ thống điện cực não bộ và hệ thống điện cực cơ.

Như vậy là nếu như não bộ hoạt động bình thường thì nó hoàn toàn có thể phát ra mệnh lệnh thần kinh điều khiển. Nếu như chúng ta thu nhận được những xung động thần kinh này và truyền tới cơ thì cơ sẽ co được bình thường. Vấn đề chỉ nằm ở chỗ liệu chúng ta có thu đủ được xung động thần kinh cần thiết hay không và liệu chúng ta có thể điều khiển cơ theo ý muốn hay không?

            Thiết bị thần kinh giả được thực hiện thí nghiệm trên khỉ để kiểm tra khả năng thành công. Kết quả thật ấn tượng, khi được phẫu thuật cấy ghép thiết bị thần kinh giả, cả hai chú khỉ thực nghiệm đều có thể vận động tay, một điều không thể thực hiện khi tủy bị đứt đoạn. Mặc dù vận động của những chú khỉ còn gượng gạo, nhưng nó chứng tỏ một điều, xung tác thần kinh đã được truyền nguyên vẹn tới chi thể.

Trong tương lai, khó khăn trong khâu nối đoạn tủy có thể sẽ được gỡ rối bằng thiết bị thần kinh giả. Trưởng nhóm nghiên cứu Lee E. Miller cho biết: Cơ hội điều khiển bàn tay và bàn chân của những nạn nhân không may bị tổn thương tủy sống có thể sẽ không còn xa vời.

Bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối sống khỏe 5 năm tạo nên kỳ tích

Cấy hạt phóng xạ duy trì thời gian bức xạ và liều lượng bức xạ cao tiêu diệt tế bào ung thư

Gần đây theo tin của phóng viên từ Bệnh viện Ung Bướu Hiện Đại Quảng Châu, tại đây áp dụng kỹ thuật cấy hạt phóng xạ trong điều trị ung thư, phương pháp này đã giúp cho một bệnh nhân ung thư phổi di căn não và xương như ông Tiền người Singapo sống được 5 năm, hiện tại khối u di căn não và xương đã tiêu biến, khối u trong phổi đã thu nhỏ kích thước được 80-90%, bây giờ ông Tiền đang sống khỏe mạnh như một người bình thường.

Ông Tiền năm nay 63 tuổi, đang sinh sống tại Singapo. 5 năm trước ông bắt đầu xuất hiện những cơn đau đầu, sau khi đi kiểm tra mới phát hiện ra ông bị ung thư phổi tế bào nhỏ di căn não, lúc đó khối u ở phổi đã to bằng nắm tay và nằm rất gần động mạnh chủ, hơn nữa đã bắt đầu có di căn não, xương sườn, đốt sống thắt lưng và những bộ phận khác, ông không thể tiến hành phẫu thuật được, sau một thời gian dài điều trị hóa chất, bệnh tình của ông không những không có chuyển biến tốt mà tình trạng càng ngày càng xấu đi. Lúc này ông Tiền đã rất đau đớn và gầy đi nhiều, ông đã mất hết niềm tin. Sau này có một số bạn bè giới thiệu ông đã quyết định tới Bệnh viện Ung Bướu Hiện Đại Quảng Châu điều trị, các chuyên gia tại bệnh viện đã phân tích tình trạng bệnh của ông và đưa ra quyết định sử dụng phác đồ xạ trị sau đó hóa chất cục bộ.

Giáo sư Bành Hiểu Xích nói rằng ung thư phổi tế bào nhỏ là một loại ung thư với độ ác tính rất cao, hơn nữa bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối bị di căn nhiều khu vực thì thông thường chỉ có thể sống được không quá nửa năm, những bệnh nhân sống được 2 năm chỉ chiếm tỉ lệ 1%. Khi ông Tiền nhập viện tình trạng của ông rất nghiêm trọng, mạng sống lúc nào cũng có thể bị đe dọa. Sau hội chẩn các chuyên gia đã quyết định sử dụng phác đồ điều trị là xạ trị kết hợp điều trị xâm lấn nhỏ, trước tiên sẽ xạ trị xử lý khối u trong não và xương giải quyết những triệu chứng đau đầu, đau lưng, sau đó sẽ tiến hành điều trị xâm lấn nhỏ, khối u trong phổi sẽ được cấy hạt phóng xạ xử lý triệu chứng đau tức ngực và ho ra máu. Sau khi tiếp nhân điều trị được 1 tháng các triệu chứng lúc đầu đã giảm hẳn, thể lực tăng cường rõ rệt, sau này bệnh nhân có thể đi điều trị củng cố định kỳ, sau 3 tháng điều trị các triệu chứng bệnh cơ bản đã không còn. Cho đến thời điểm hiện tại ông Tiền đã sống được 5 năm, tình trạng sức khỏe ổn định như một người bình thường.

Phương pháp cấy hạt phóng xạ đó là cấy những hạt có khả năng bức xạ vào trong lòng khối u, thông qua duy trì thời gian bức xạ và liều lượng bức xạ cao tiêu diệt trực tiếp tế bào ung thư, đồng thời trong quá trình tiêu diệt tế bào ung thư lại không hề gây tổn thương tới các tổ chức lành lặn xung quanh. Đặc điểm của kỹ thuật cấy hạt phóng xạ như sau: can thiệp xâm lấn nhỏ tối thiểu, an toàn hiệu quả, khả năng tiêu diệt tế bào ung thư chính xác và cao, thích hợp điều trị đối với khối u thực thể. Ngoài ra, giáo sư Bành cũng giới thiệu thêm, thực tế hiện nay có rất nhiều phương pháp điều trị ung thư giai đoạn cuối hiệu quả như đốt cao tần, hóa chất truyền động mạch… Vì vậy giáo sư Bành khuyên rằng cho dù đã là ung thư giai đoạn cuốithì các bệnh nhân cũng không nên mất niềm tin mà từ bỏ cơ hội điều trị, nên tích cực phối hợp với các chuyên gia để lựa chọn cho mình một phác đồ điều trị phù hợp và tích cực điều trị.

Các thuốc gây tăng acid uric máu

Gút là bệnh rối loạn chuyển hóa các nhân purin dẫn đến tăng acid uric máu. Có nhiều nguyên nhân làm tăng acid uric máu. Trong phạm vi bài viết này, xin đề cập đến nguyên nhân có thể gặp gây tăng acid uric máu là do sử dụng một số thuốc gây giảm bài tiết acid uric qua thận như dùng aspirin, phenylbutazone liều thấp kéo dài, đa số các thuốc lợi tiểu (trừ nhóm spironolactone) dùng kéo dài; thuốc điều trị lao như ethambutol, pyrazinamid...

Nhóm thuốc lợi tiểu:

Các thuốc lợi tiểu được chỉ định dùng trong điều trị phù do suy tim, xơ gan, suy thận cấp hay mạn tính, hội chứng thận hư… được dùng đơn độc hoặc phối hợp với các thuốc hạ huyết áp khác để điều trị tăng huyết áp. Hầu hết các thuốc trong nhóm lợi tiểu, dù là lợi tiểu nhóm thiazide; lợi tiểu quai furosemide… khi dùng kéo dài đều có thể gây tăng acid uric máu. Các thuốc lợi tiểu này làm giảm bài tiết acid uric qua thận, dẫn đến tăng nồng độ chất này trong máu.

Có thể kể một số thuốc lợi tiểu gây tăng acid uric máu như hydrochlorothiazide, các thuốc lợi tiểu nhóm thiazide và tương tự thiazide khác (chorthalidone, metolazone); lợi tiểu quai furosemide, bumetanide, ethacrynic acid; lợi tiểu nhóm indapamide; amiloride… Chỉ duy nhất thuốc lợi tiểu nhóm spironolactone là không ảnh hưởng đến thải trừ acid uric nên có thể dùng kéo dài ở bệnh nhân gút hoặc tình trạng tăng acid uric máu không triệu chứng; còn hầu hết các thuốc khác đều cần thận trọng khi sử dụng, đặc biệt nếu phải dùng kéo dài.

Aspirin, hay acetylsalicylic acid (ASA):

Là một dẫn xuất của acid salicylic, thuộc nhóm thuốc chống viêm non-steroid; có tác dụng giảm đau, hạ sốt, chống viêm. Thuốc còn có tác dụng chống kết tập tiểu cầu, khi dùng liều thấp kéo dài có thể phòng ngừa đau tim và hình thành cục nghẽn trong mạch máu. Ngoài tác dụng không mong muốn xảy ra như rối loạn tiêu hóa: kích ứng dạ dày, đầy bụng, buồn nôn… Aspirin còn có tác dụng trên quá trình thải trừ acid uric nhưng tùy thuộc vào liều: liều 1-2g/ngày hoặc thấp hơn có tác dụng giảm thải trừ acid uric qua thận dẫn đến tăng acid uric máu. Liều cao trên 2g/ngày lại tăng thải acid uric qua thận dẫn đến giảm acid uric máu.

 

 Hình ảnh acid uric lắng tụ tại khớp.

 

Tuy nhiên, aspirin liều cao không được dùng làm thuốc điều trị hạ acid uric máu trong bệnh gút vì nó làm giảm tác dụng của các thuốc điều trị gút khác và làm tăng tác dụng phụ trên dạ dày ruột. Trường hợp bệnh nhân gút cần dùng thuốc aspirin liều thấp kéo dài với mục đích chống ngưng tập tiểu cầu cần thận trọng, cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ. Nếu có thể thay thế bằng các thuốc khác như clopidogrel (plavix), dipyridamol (persantin, curantyl).

Thuốc chống lao:

Bệnh lao hiện nay khá phổ biến và có nguy cơ gia tăng cao trong xã hội, đặc biệt khi nó phối hợp với hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS). Các phác đồ thuốc chống lao hiện nay thường phải kết hợp nhiều thuốc như streptomycin, rifampicin, isoniazid, ethambutol, pyrazinamid… Trong số các thuốc trên thì ethambutol và pyrazinamid là hai thuốc có thể làm tăng acid máu. Các thuốc trên nên tránh dùng khi có cơn gút cấp tính.

Nhóm thuốc vincristin, cisplatin…

Là những thuốc dùng trong điều trị một số bệnh lý ác tính khác nhau như u lympho ác tính Hodgkin và không Hodgkin, u lympho Burkitt, bệnh đa u tủy xương... Thuốc ức chế miễn dịch cyclosporin, cyclophosphamid được sử dụng để điều trị các rối loạn tự miễn như viêm đa cơ, luput ban đỏ hệ thống, thiếu máu tan huyết tự miễn, xuất huyết giảm tiểu cầu vô căn, các chứng viêm mạch như bệnh u hạt Wegener, vảy nến thể nặng… Các thuốc trên làm tăng acid uric máu do giảm thải trừ acid uric qua nước tiểu và có thể kèm gây tăng hủy tế bào.

Một số thuốc khác cũng gây tăng acid uric máu như phenylbutazon là một thuốc chống viêm không steroid (NSAID) có tác dụng điều trị sốt, đau và viêm trong cơ thể. Ketoconazol là một trong những loại thuốc uống đầu tiên ngăn ngừa nấm. Isotretinoin là thuốc chữa trứng cá do làm giảm bài tiết và kích thích tuyến bã nhờn vì vậy làm giảm sẹo.

Theophyllin là thuốc giãn phế quản nhóm xanthine dùng trong điều trị bệnh hen phế quản, ngoài ra còn có tác dụng lợi tiểu. Pentamidin, một thuốc kháng sinh hay dùng trong điều trị pneumocystis jiroveci (thường gặp ở bệnh nhân nhiễm HIV/AIDS). Levodopa dùng trong điều trị bệnh Parkinson. Một số nghiên cứu gần đây cho thấy, một số bệnh nhân điều trị tăng huyết áp với thuốc chẹn beta giao cảm timonol lại thấy tăng acid uric máu nhưng ở bệnh nhân không có tăng huyết áp thì timolol không có ảnh hưởng gì rõ rệt đến thải acid uric tại thận…

Tóm lại, với việc gia tăng tình hình bệnh tật như hiện nay, đặc biệt là sự kết hợp bệnh gút với nhiều bệnh lý khác do đó một người có thể phải dùng nhiều loại thuốc cùng lúc, vì vậy chúng ta cần thận trọng trong sử dụng một số thuốc điều trị có thể làm tăng acid uric máu dẫn đến khởi phát cơn gút cấp.    

Phù do thuốc hạ huyết áp

Thuốc hạ huyết áp chẹn canxi amlodipin là một thuốc thường dùng trong điều trị tăng huyết áp. Chỉ cần dùng đúng liều chỉ định sẽ giúp người bệnh kiểm soát tốt huyết áp. Tuy nhiên, chúng ta cần hết sức chú ý với biến cố phù do thuốc.

Trường hợp điển hình

Ông Đặng Văn Thu, 76 tuổi (Thái Bình) là một nạn nhân gặp phải tác dụng không mong muốn do amlodipin. Vốn là người bị tăng huyết áp vô căn, nên ông phải
dùng thuốc amlodipin điều trị huyết áp liên tục. Cách đây nửa năm, căn bệnh tăng huyết áp của ông nặng thêm và con số huyết áp cao dần. Ông đã tự động “bổ sung” thêm thuốc (tăng liều) trong quá trình điều trị. Mọi việc diễn ra suôn sẻ khi ông đạt được mục tiêu kiểm soát huyết áp.

Tuy nhiên, sau khi tự ý tăng liều thuốc, ông bắt đầu thấy có hiện tượng lạ: cảm thấy thân mình trở nên nặng nề hơn, mí mắt căng mọng và khó mở. Ông cứ nghĩ đây là dấu hiệu của tuổi già nên cũng không thấy lo lắng nhiều. Sang tuần thứ hai thì ông thấy có sự thay đổi thực sự. Chân tay ông sưng lên, to ra. Người thì tròn lẳn ra nhưng rất khó chịu... ông mới nghĩ tới hiện tượng bị phù nên đã đi khám bệnh. Bác sĩ khám và cho biết, ông bị phù toàn thân do dùng quá liều thuốc amlodipin. Sau 2 tuần điều trị, bệnh phù toàn thân của ông lui dần.

Quá liều là gây phù

Bình thường, amlodipin là thuốc hạ huyết áp dòng chẹn canxi rất tốt. Nó có tác dụng ức chế kênh canxi ở hệ cơ thành mạch. Cho nên thuốc có tác dụng chống co mạch ngoại biên, gây hạ huyết áp rất tốt (vì thuốc không làm giảm hiệu suất cơ tim mà chỉ làm giãn mạch). Huyết áp được hạ xuống ngưỡng an toàn trong khi lại không gây thiếu máu. Dùng thuốc được xem là lợi đôi đường vì vừa đạt được mục tiêu điều trị lại vừa đảm bảo lưu chuyển máu bình thường. Tác dụng này xem ra là ưu việt hơn một số thuốc khác như thuốc lợi tiểu hay thuốc chẹn beta.

Tuy nhiên, số liệu thu thập từ những tác dụng phụ ghi nhận được thì một trong các tác dụng đáng chú ý nhất là phù toàn thân. Đây là một trong các tác dụng phụ hay gặp nhất trên người bệnh. Tỷ lệ gặp ở thuốc này khoảng từ 8-10%.

Phù do amlodipin là phù kiểu trữ nước toàn thân. Phù có đặc điểm là phù trắng, mềm và có thể ấn lõm, nặng nhất ở chân, tay rồi mới đến thân mình và mặt. Ít khi bị phù đơn độc một vị trí. Phù do amlodipin phụ thuộc vào liều. Uống liều càng cao, càng kéo dài thì càng bị phù nặng và điển hình. Nhưng khi ngừng dùng thuốc thì phù sẽ giảm dần và có thể phục hồi hoàn toàn. Đáng nói là dù có phù nhưng hiệu quả hạ huyết áp vẫn đạt được.

Ngoài tác phụ là gây phù thuốc còn có một số tác dụng phụ khác như dị ứng, đau thắt ngực và rối loạn nhịp tim.

Dùng thế nào cho an toàn?

Trước những biến cố riêng của thuốc như trên, lời khuyên là hãy thận trọng với thuốc amlodipin trong điều trị tăng huyết áp. Với người cao tuổi, việc dùng bất cứ thuốc gì cũng phải cân nhắc và theo dõi thật kỹ. Khi dùng amlodipin càng phải chú ý hơn vì dễ gây lắng đọng thuốc trong cơ thể và gây phù. Tuyệt đối không dùng quá liều chỉ định vì chỉ cần dùng thêm là có thể phù xuất hiện ngay. Lưu ý dùng với người bị bệnh thận hay người có tiền sử suy thận. Vì bản thân những người này đã dễ bị tích nước và phù sẵn có. Nếu dùng amlodipin ở những người này thì phù càng dễ xuất hiện và nặng nề thêm.

Vì thuốc có biến chứng gây phù nên tuyệt đối không sử dụng với người bị suy tim, đặc biệt là suy tim phải. Nhìn chung những người bị bệnh van tim, bệnh suy tim phải hay suy tim toàn bộ khuyến khích không nên sử dụng vì có thể càng làm cho người bệnh khó thở hơn. Trước khi dùng phải khảo sát thật kỹ bệnh lý tim mạch của người bệnh kẻo nếu không càng làm cho bệnh tim mạch thêm phần phức tạp.

Không nên dùng thuốc với người bị bệnh nhồi máu cơ tim, thiếu máu cơ tim hay bị bệnh mạch vành. Vì dùng thuốc có thể làm tăng tần số lần đau thắt ngực. Người bệnh cần phải uống thuốc đều. Nếu quên uống thuốc thì hãy dùng thuốc ngay khi có thể. Nhưng lưu ý là nếu hai thời điểm dùng thuốc gần nhau dưới 3 giờ thì nên bỏ qua và đợi đến lần uống thuốc kế tiếp để uống. Nếu không người bệnh sẽ rơi vào trạng thái là dùng liều tăng gấp đôi và biến cố có thể xảy ra.


 

Ngày 25/06/2012
Ths.Bs. Huỳnh Hồng Quang và Cn. Nguyễn Hải Giang  

THÔNG BÁO

   Dịch vụ khám chữa bệnh chuyên khoa của Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn khám bệnh tất cả các ngày trong tuần (kể cả thứ 7 và chủ nhật)

   THÔNG BÁO: Phòng khám chuyên khoa Viện Sốt rét-KST-CT Quy Nhơn xin trân trọng thông báo thời gian mở cửa hoạt động trở lại vào ngày 20/10/2021.


 LOẠI HÌNH DỊCH VỤ
 CHUYÊN ĐỀ
 PHẦN MỀM LIÊN KẾT
 CÁC VẤN ĐỀ QUAN TÂM
 QUẢNG CÁO

Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn
Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005
Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.
Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464
Email: impequynhon.org.vn@gmail.com
Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng
Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích