TRANG CHỦ | Thứ 7, ngày 23/11/2024 |
|
|||||||||||||||
|
Liên quan đến câu hỏi đặt ra vấn đề của bạn, chúng tôi xin chia sẻ với bạn dưới góc độ và thông tin chuyên khoa từ các chuyên gia da liễu tại việt |
Cho đến nay đã có nhiều phương pháp điều trị bệnh viêm da dầu như bôi mỡ coticoides, thuốc kháng nấm tại chỗ, uống và bôi vitamin A acid, zinci - pyrithyon nhằm kiểm soát các dấu hiệu và triệu chứng của bệnh. Các thuốc có corticoides được sử dụng nhiều và có hiệu quả trong điều trị, hiện nay có nhiều kem bôi corticoides phối hợp với thuốc chống nấm như Clotrimazol và kháng sinh dùng rất tốt cho bệnh viêm da dầu.
Với viêm da dầu trên đầu: dùng các loại dầu gội chống nấm như selenium sulfide, zinc pyrithione, ketoconazol 2% gội 2 - 3 lần/tuần, có thể dùng duy trì lâu dài. Trường hợp nặng có thể bôi dung dịch lotion hoặc gel corticoid nhẹ trong 1 - 2 tuần. Trường hợp có vảy dày cần được điều trị bằng các loại kem có chứa corticosteroid hoặc salicylic acid. Việc điều trị thường phải kéo dài nhiều tuần, nếu sau khi ngừng điều trị mà bệnh tái phát thì việc điều trị có thể bắt đầu lại từ đầu.
Với mặt và thân mình: dùng thuốc bôi corticoides dạng kem hay lotion bôi trong 1 - 2 tuần, sau đó bôi kem pimecrolimus 1%. Các kem dưỡng ẩm cần bôi nhiều lần trong ngày và bôi duy trì, đặc biệt vào mùa thu đông. Glucocorticoides bôi tại chỗ thường được sử dụng 2 lần mỗi ngày trong giai đoạn cấp. Sau khi bệnh đã được kiểm soát, có thể bôi cách ngày hoặc hai lần mỗi tuần tại nơi tổn thương để ngăn ngừa bệnh tái phát.
Tác dụng phụ của glucocorticoides bôi tại chỗ tùy thuộc vào cường độ tác dụng và thời gian sử dụng thuốc, thường gặp nhất là rạn da, nổi mụn trứng cá, giãn mạch, teo da. Lưu ý khi dùng kem chứa corticoides cho tổn thương ở da mặt hoặc cho trẻ em, nên ưu tiên sử dụng những loại có tác dụng nhẹ như hydrocortison, dexamethason. Những loại glucocorticoides có tác dụng mạnh chỉ nên dùng trong thời gian ngắn và tại những vùng dày sừng, không được dùng ở mặt và da mỏng.
Ngoài ra, có thể dùng thuốc glucocorticoides đường uống hoặc tiêm. Với loại thuốc này, dù cải thiện tốt các triệu chứng lâm sàng nhưng ít khi được sử dụng do bệnh thường tái phát mạnh hơn sau khi ngưng thuốc. Trường hợp nặng, không đáp ứng với điều trị tại chỗ, có thể dùng một đợt glucocorticoid đường uống ngắn ngày nhưng phải lưu ý giảm dần liều trước khi ngừng thuốc.
Thuốc điều trị toàn thân: có thể dùng Itraconazole uống trong 2 tuần. Cần xem xét về thể trạng của người bệnh, dinh dưỡng và bổ sung các vitamin B3, vitamin B6, vitamin H, viên kẽm;
Điều trị duy trì: rất cần thiết để tránh tái phát và hạn chế bệnh nặng lên. Bôi kem dưỡng ẩm, kem bôi ketoconazol 2% và shampoo dùng duy trì. Có thể bôi mỡ bong vảy da salicylic 2%. Khi bệnh nặng lên có thể bôi kem hydrocortison 1-2,5% trong 1 tuần. Mỡ bôi pimecrolimus 1% hoặc tacrolimus 0,03% vừa có hiệu quả vừa an toàn và dùng lâu dài.
Chiếu tia cực tím tại chỗ: được sử dụng trong những trường hợp nặng và không đáp ứng với các điều trị bằng thuốc. Tác dụng phụ hay gặp là nổi ban đỏ, rát và ngứa da, rối loạn sắc tố. Tuy nhiên, người bệnh cũng nên đi khám bác sĩ để có chẩn đoán chính xác và được chỉ định điều trị cụ thể, không tự ý chữa hoặc dùng các loại thuốc, nhất là các thuốc dân gian không rõ nguồn gốc, bệnh sẽ nặng lên, điều trị sẽ càng khó khăn.
Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến: “Đừng để bệnh nhân hiểu lầm người thầy thuốc”
Theo Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Viết Tiến, sự ứng xử của bác sĩ với bệnh nhân là vô cùng quan trọng. Trong trường hợp không phải cấp cứu nhưng bác sĩ không thể mổ được vì lý do công việc, bác sĩ nên giải thích và người bệnh nên thông cảm. Sự cảm thông giữa hai phía thầy thuốc và bệnh nhân là vô cùng quan trọng để phục vụ lợi ích vì sức khỏe trước tiên của bệnh nhân, sau là mới tới thầy thuốc.
TS. Nguyễn Huy Quang, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế: “Việc từ chối bệnh nhân trên là hoàn toàn đúng chuyên môn và phù hợp quy định”
Trao đổi với phóng viên về vụ việc này, ông Nguyễn Huy Quang - Vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Y tế cho biết: “Thứ nhất phải căn cứ vào Luật khám, chữa bệnh. Theo luật, người bệnh được quyền khám, chữa bệnh theo yêu cầu và điều kiện thực tế. Người bệnh được giải thích, tư vấn rõ ràng về hiện trạng bệnh và rủi ro có thể xảy ra khi điều trị. Quyền của người bệnh gắn với nghĩa vụ của người khám, chữa bệnh. Người thầy thuốc cần sơ, cấp cứu kịp thời và đối xử bình đẳng với mọi người bệnh. Nghiêm cấm từ chối hoặc chậm cấp cứu người bệnh. Với trường hợp cụ thể này, đây không phải là trường hợp cấp cứu nên bác sĩ từ chối để phục vụ người bệnh cấp cứu là phù hợp quy định. Về mặt đạo đức, người thầy thuốc ưu tiên các ca bệnh khẩn, cấp cứu, không phân biệt là ai. BS.Quyết làm quản lý và kiêm thêm công tác chuyên môn, bác sĩ hoàn toàn có thể cân nhắc tùy theo chẩn đoán bệnh để đảm bảo an toàn cho các ca cả mẹ và bé. Trường hợp bệnh nhân nêu trên không phải ca cấp cứu, chỉ được chọn BS phù hợp với hiện trạng bệnh. Hơn nữa, các BS khác không kém gì về chuyên môn, y đức nên hoàn toàn phù hợp. Giả sử có một trường hợp người bệnh cấp cứu mà BS. Quyết từ chối để mổ dịch vụ cho người khác, sau đó ca cấp cứu xảy ra biến cố thì lúc đó chính BS. Quyết đã vi phạm chuyên môn và y đức. Vì vậy, việc từ chối bệnh nhân trên là hoàn toàn đúng chuyên môn và phù hợp quy định”.
LS Hoàng Mạnh Hùng - Phó trưởng Văn phòng Luật sư Việt Thành, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội: “Bác sĩ đã hoàn thành trách nhiệm đưa lời khuyên và tư vấn chuyên môn cho bệnh nhân khá đầy đủ”
Luật Khám bệnh, chữa bệnh số 40/2009/QH12 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, Kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 23/11/2009 và có hiệu lực từ ngày 01/01/2011 quy định về vấn đề này như sau: BS có quyền từ chối khám chữa bệnh cho bệnh nhân như: được từ chối khám bệnh, chữa bệnh nếu trong quá trình khám bệnh, chữa bệnh mà tiên lượng bệnh vượt quá khả năng hoặc trái với phạm vi hoạt động chuyên môn của mình nhưng phải báo cáo với người có thẩm quyền hoặc giới thiệu người bệnh đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác để giải quyết. Trong trường hợp này, người hành nghề vẫn phải thực hiện việc sơ cứu, cấp cứu, theo dõi, chăm sóc, điều trị người bệnh cho đến khi người bệnh được chuyển đi cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khác; Được từ chối khám bệnh, chữa bệnh nếu việc khám bệnh, chữa bệnh đó trái với quy định của pháp luật hoặc đạo đức nghề nghiệp.
Sự việc diễn ra như báo SK & ĐS nêu, BS. Quyết có quyền từ chối phẫu thuật cho bệnh nhân Trang. BS. Quyết đã thực hiện trách nhiệm khám cho bệnh nhân Trang. Trước khi từ chối mổ cho bệnh nhân Trang để chuyển sang thăm khám cho những bệnh nhân khác đang chờ đợi, BS. Quyết cũng đã hoàn thành trách nhiệm đưa lời khuyên và tư vấn chuyên môn cho bệnh nhân Trang khá đầy đủ. Giả sử BS. Quyết có thành kiến với nhà báo - bệnh nhân Trang - thì theo tôi, BS. Quyết đã từ chối khám ngay từ khi đọc hồ sơ bệnh nhân để tập trung thăm khám cho các bệnh nhân khác đang xếp hàng chờ đợi.
Phó Trưởng Ban Tuyên giáo TW Nguyễn Thế Kỷ: “Người phóng viên phải đưa đến cho bạn đọc những thông tin chính xác, khách quan nhất”
Nếu cô phóng viên đến bệnh viện với mục đích được chữa trị hoặc muốn được bác sĩ chăm sóc sức khỏe thì không cần giới thiệu mình là ai. Bởi khi đến viện, người bệnh chỉ có nhu cầu chữa khỏi bệnh.Ngay cả với những người nghèo khó nhất, có địa vị xã hội thấp nhất cũng không cần phải nói điều đó, còn đối với người có thân phận và địa vị xã hội càng cao thì càng không nên nói ra để cho người khác biết. Không nên tự cho mình có quyền nọ, quyền kia nhân danh một vị thế xã hội để phục vụ cho mục đích cá nhân. Hiện nay, có 1 số phóng viên trẻ do kiến thức và trải nghiệm chưa nhiều nên đôi khi xử lý công việc còn cảm tính, mà điều này là không nên.
Nhà báo Nguyễn Thùy Linh, PV báo VTC News: “Vội vã viết một bài báo phê phán - đó là vùi dập người có tâm với nghề”
Nhiều nhà báo, trong đó có tôi thỉnh thoảng vẫn dùng cái thẻ nhà báo của mình để giải quyết một số việc... Nhưng tôi biết cái thẻ đó không phải là “bùa hộ mệnh” trong bất cứ trường hợp nào, đặc biệt khi mình đi khám chữa bệnh thì không bao giờ dùng nghiệp vụ vì mình là người có bệnh đang cần cứu chữa… Khi gặp bác sĩ, gặp công an, trước hết tôi vẫn coi mình là một công dân. Nếu sai, tôi sẽ xin lỗi rồi dùng lời lẽ nhũn nhặn để thuyết phục họ một cách có lý có tình nhất mà tôi có thể. Tôi đã từng làm việc với BS. Vũ Bá Quyết - Giám đốc BV Phụ sản TW. Bằng cảm nhận từ cái đầu và trái tim, tôi không bao giờ nghĩ BS. Quyết “phũ phàng” đến vậy. Có thể BS - người từng bị “gài bẫy” và bị đưa lên báo nên bác ấy có phản ứng và buột miệng nói gì đó khiến ai đó thấy không chấp nhận được. Ai cũng có lúc như vậy, nhưng không đủ để viết một bài báo phê phán một con người có thể khiến người ấy bị cả xã hội nhìn nhận sai lệch. Điều đó là vùi dập một con người có tài và cũng có tâm với nghề, với bệnh nhân. Tôi thấy đau lòng!!! Các bạn có quá vội vàng không???
BS. Nguyễn Trung Cấp - Trưởng khoa Cấp cứu, BV Bệnh nhiệt đới TW: “Bác sĩ quyết định vì chính lợi ích của người bệnh”
BS. Quyết từ chối mổ trong trường hợp này là đúng, bởi BS phải chịu áp lực quá tải công việc. Sự không tỉnh táo và kiệt sức của thầy thuốc có thể gây nguy hại cho BN và cho chính bản thân BS. Chính vì thế, những công việc đòi hỏi độ chính xác cao như phẫu thuật, thủ thuật không được cố khi đã mệt mỏi sẽ ảnh hưởng tới tính mạng bệnh nhân. Nếu một phẫu thuật viên trong tâm lý bị ức chế thì không nên đứng mổ vì ca mổ sẽ không tốt cho bệnh nhân, trừ trường hợp không có ai thay thế hoặc phải xử trí cấp cứu ngay. Trong khi đó, BV Phụ sản Trung ương là một BV đầu ngành của sản khoa, có nhiều BS phẫu thuật tay nghề cao thực hiện được nên tốt nhất là giới thiệu cho BS khác mổ.
Trong y học có những quy định bất thành văn nhưng toàn thế giới vẫn tuân thủ như BS không mổ, trực tiếp điều trị cho người thân (cha, mẹ, vợ con...) vì tâm lý có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Và những đối tượng có mâu thuẫn cũng vậy. Điều đó xuất phát từ ích lợi của BN chứ không phải ích lợi của thầy thuốc.
Nguyễn Xuân Hoàng, Điều dưỡng gây mê Bệnh viện K: “Ưu tiên những trường hợp cấp cứu để giành giật sự sống cho họ - đó cũng là y đức”
Tôi đồng tình với BS. Quyết từ chối mổ cho bệnh nhân Trang bởi phải ưu tiên BS có tay nghề cao để cứu những ca bệnh khó trước. Bệnh nhân nên biết và dành cho BS sự tôn trọng, trước hết là giữa con người với con người, sau là đối với người đã chữa bệnh cho mình. Không nên mang đồng tiền ra để làm thước đo giá trị con người và đánh giá y đức. Mỗi ngành nghề đều có đặc thù riêng, phải ở trong nghề thì mới thấu hiểu hết được. Tôi đã từng được chứng kiến bệnh nhân viêm ruột thừa, đau đớn, khả năng vỡ cũng khá cao. Nhưng đã đưa bệnh nhân vào cửa phòng mổ rồi lại phải đưa ra vì lúc đó còn một bệnh nhân khác nặng hơn nhiều, khả năng tử vong cận kề, cần phải được ưu tiên giải quyết trước. Đương nhiên ai cũng cần được cứu chữa nhưng bệnh nhân nào cần cấp cứu để giành giật sự sống thì BS sẽ ưu tiên được làm trước - đó cũng là y đức.
Chúng tôi nghĩ rằng với các thông tin trên từ nhiều đồng nghiệp trong ngành, luật sư, nhà báo,…phần nào đã giúp cho bạn hiểu hưn về những các chiến sĩ áo trắng trên mặt trận khám chữa bệnh như chúng tôi hiện nay. Một lần nữa, kính chúc gia đình chị khỏe và luôn tin tưởng về đội ngũ thầy thuốc Việt
Trả lời:
Một số yếu tố có thể dễ dẫn đến đau dây thần kinh hậu zona bao gồm người cao tuổi, giới nữ hay bị hơn nam, có biểu hiện đau nhiều trong giai đoạn có tổn thương ban và bọng nước, ban và bọng nước nặng và lan rộng, có các biểu hiện tiền triệu (đau và dị cảm đau vùng dây thần kinh bị ảnh hưởng trước khi xuất hiện ban và bọng nước), cơ thể suy giảm miễn dịch như đang dùng thuốc ức chế miễn dịch, thuốc corticoides, thuốc chống thải ghép ở những người ghép tạng, nhiễm virus HIV/AIDS, bệnh nhân lao, tiểu đường, suy giảm miễn dịch khác. Một số yếu tố về mặt tâm lý cũng có thể thúc đẩy xuất hiện đau dây thần kinh hậu zona, vị trí tổn thương nguy cơ là thấp nếu zona ở vùng cằm, cổ và thắt lưng. Nguy cơ trung bình ở vùng ngực, guy cơ cao nhất ở vùng chi phối của dây thần kinh sinh ba (dây thần kinh sọ não số V), đặc biệt là nhánh mắt (vùng mặt) và đám rối thần kinh cánh tay.
Các biểu hiện của đau dây thần kinh hậu zona thường giới hạn ở những vùng da đầu tiên xảy ra bệnh zona và thường chỉ một bên cơ thể. Có thể gồm có đau và dấu chứng đau vẫn tiếp tục dai dẳng vài tháng hoặc thậm chí hàng năm sau mặc dù tổn thương ban đầu của zona đã giảm hoặc biến hết. Cảm giác đau nóng rát, giần giật, đau nhói trong sâu da thịt. Cảm giác đau xuất hiện khi có các kích thích mà bình thường không gây đau hoặc khó chịu như tiếp xúc nhẹ, kể cả tiếp xúc với quần áo, hơi nóng hoặc hơi lạnh. Ngứa và tê ít gặp hơn và có thể có biểu hiện yếu hoặc liệt cơ. Các biểu hiện có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ, ăn uống và thậm chí gây trầm cảm và cách biệt xã hội.
Trong thời gian bị nhiễm trùng ban đầu của bệnh thủy đậu, một số virut ở tế bào thần kinh của cơ thể trong trạng thái không hoạt động. Nhiều năm sau, virut có thể bị tái kích hoạt gây ra bệnh zona. Vì cơ thể đã có miễn dịch chống lại virut nên ban và bọng nước chỉ xuất hiện ở vùng da bị chi phối bởi dây thần kinh có virut tái hoạt động.
Đau dây thần kinh hậu zona xảy ra nếu các sợi thần kinh bị tổn thương trong đợt bùng phát của bệnh zona. Sợi thần kinh bị tổn thương không thể gửi tin nhắn từ da đến não bộ theo cách thông thường mà thay vào đó, các thông điệp trở nên rối loạn gây đau dai dẳng hàng tháng, thậm chí cả năm.
Thăm khám vùng bị zona có sẹo, giảm cảm giác hoặc quá mẫn, thậm chí dị cảm. Trong hầu hết trường hợp, đau dây thần kinh hậu zona có thể được chẩn đoán dựa vào lâm sàng mà không cần làm xét nghiệm. Bác sĩ cần giải thích cho người bệnh hiểu được bản chất của bệnh, bao gồm cả tính chất dai dẳng của triệu chứng và mục tiêu của điều trị; Khuyên người bệnh mặc quần áo rộng rãi, chất liệu cotton sẽ giảm được kích thích lên vùng da nhạy cảm.
Hiện nay chưa có phương pháp điều trị đặc hiệu. Trong nhiều trường hợp, có thể cần phải kết hợp các phương pháp điều trị để giảm đau. Thường kết hợp các thuốc giảm đau tại chỗ (miếng dán có chứa thuốc giảm đau hoặc bôi thuốc giảm đau) và thuốc giảm đau toàn thân, thuốc chống trầm cảm ba vòng, thuốc chống co giật, thuốc giảm đau dạng thuốc phiện... Tuy nhiên, đau hoặc khó chịu đáp ứng kém với các thuốc giảm đau thông thường. Những trường hợp nặng hơn có thể cần dùng phương pháp thủy châm bằng các thuốc tăng cường dinh dưỡng, bổ thần kinh; phương pháp kích thích điện thần kinh qua da; tiêm thuốc phong bế dây thần kinh...Vaccine có thể giúp ngăn ngừa bệnh zona và đau dây thần kinh hậu zona ở người trưởng thành.
Bệnh zona thường đau trước khi phát ban. Nguy cơ phát triển đau dây thần kinh hậu zona giảm một nửa nếu bắt đầu dùng thuốc kháng virut trong vòng 72 giờ từ khi xuất hiện phát ban bệnh zona. Ðau dây thần kinh hậu zona ảnh hưởng đến các dây thần kinh và da. Ðau có thể ảnh hưởng đến giấc ngủ và ăn uống. Nguy cơ đau dây thần kinh hậu zona tăng theo tuổi tác, chủ yếu gặp ở những người trên 60 tuổi (chiếm khoảng 1/3 số người bị bệnh). Vùng da bị đau cũng khác nhau, nhưng zona ở phần trên của cơ thể, đặc biệt là vùng mặt có nguy cơ đau dây thần kinh hậu zona cao hơn rõ rệt các vùng khác. Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu mà chỉ là điều trị triệu chứng giảm đau và các biện pháp giảm nhẹ. Với hầu hết các trường hợp, đau có thể giảm dần theo thời gian. Biểu hiện đau thường giới hạn ở vùng da bị bệnh lúc đầu, chủ yếu là vùng chi phối của trục thần kinh và chỉ ở một bên của cơ thể.
Nguyễn Trung Thắng, 52 tuổi, Cam Lâm, Cam Ranh, Khánh Hòa, 0914….
Người bệnh bị gai cột sống thường được điều trị bảo tồn bằng các thuốc giảm đau kháng viêm không steroid, thuốc giãn cơ hay sử dụng một số dụng cụ nâng đỡ như nẹp cổ… nhằm giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh. Phẫu thuật chỉ đặt ra trong trường hợp có sự chèn ép vào tủy, làm hẹp ống tủy hoặc chèn ép hệ thần kinh và gây các dấu hiệu tê chân, tay, rối loạn đại tiểu tiện. Tuy nhiên, ngay cả khi phẫu thuật gai xương vẫn có thể mọc lại ở cùng vị trí cũ vì thực tế quá trình hình thành gai xương là một đáp ứng tự nhiên của cơ thể đối với phản ứng viêm. Trường hợp của anh nên điều trị theo phác đồ của bác sĩ và tái khám định kỳ để phát hiện sớm các tiến triển xấu từ đó có biện pháp xử trí thích hợp.
Gai trên các đột sống của cột sống là sự phát triển thêm ra của xương trên thân đốt sống, đĩa sụn hay dây chằng quanh khớp. Gai cột sống thường gặp ở một số vị trí như đoạn cột sống cổ và cột sống thắt lưng. Khi bị gai cột sống, người bệnh thường có cảm giác đau do khi cử động, gai tiếp xúc với dây thần kinh hoặc các đốt xương sống. Ngoài ra, đau còn làm hạn chế vận động cổ, vai, thắt lưng.
Khi bị gai cột sống, người bệnh thường có tâm lý chỉ muốn cắt bỏ ngay cái gai này để hết cảm giác đau, khó chịu nhưng đa phần các trường hợp gai cột sống đều được điều trị nghiêng về bảo tồn bằng việc sử dụng thuốc giảm đau kháng viêm không steroid, nhóm thuốc giãn cơ; giảm bớt gánh nặng lên các đốt sống bị bệnh bằng cách dùng một số dụng cụ nâng đỡ như nẹp cổ hoặc áo giáp... Châm cứu, vật lý trị liệu giúp giảm đau và tăng vận động ở một số khớp bị ảnh hưởng có thể được áp dụng để hỗ trợ điều trị. Người bệnh cũng nên tập thể dục đều đặn nhưng cần tránh những môn thể thao bắt cột sống phải chịu trọng lượng lớn như nhảy cao, đẩy tạ...
Phẫu thuật được đặt ra khi gai chèn ép vào tủy, làm hẹp ống tủy hoặc các rễ thần kinh ở cột sống. Việc điều trị cần phải do các bác sĩ chuyên khoa xương khớp và cột sống thần kinh khám và điều trị cụ thể.
Thân chúc anh chị trong cơ quan anh chị khỏe nhé!
Trả lời:
Parkinson là một bệnh thoái hóa mạn tính một số tổ chức ở não (thể vân, liềm đen), là nguyên nhân gây tàn phế ở người lớn tuổi - đứng hàng thứ hai sau các bệnh lý mạch não. Bệnh tiến triển nặng dần và phải điều trị suốt đời, gây tốn kém cho gia đình và xã hội. Bệnh diễn biến từ từ với triệu chứng nhanh mệt mỏi, máy cơ, đau mỏi cơ (đây là những triệu chứng không đặc trưng của bệnh). Có 3 triệu chứng chính trên bệnh nhân bị Parkinson gồm có run, cứng cơ (tăng trương lực cơ), giảm động tác.
-Run: run khi nghỉ ngơi, run nhỏ, khoảng 4 - 8 lần trong một giây. Run mất khi ngủ và vận động chủ ý nhưng run tăng khi xúc động, mệt mỏi và khi cố gắng tập trung trí óc; run thường bắt đầu ở một bên và chủ yếu ở đầu ngón tay (cử động giống như đếm tiền hoặc vê thuốc lào), cũng có thể run ở chân.
-Tăng trương lực cơ (cứng đờ): Lúc đầu cứng ở một bên của cơ thể, sau lan sang bên đối diện và cuối cùng là toàn thân dẫn đến các động tác bị ngừng lại hoặc ngập ngừng khi khởi động.
-Giảm động tác: người bệnh ít chớp mắt; giảm điệu bộ với nét mặt không diễn cảm; giảm vung tay khi đi; khó khăn thực hiện được các động tác xen kẽ nhanh như sấp ngửa bàn tay…Những rối loạn vận động biểu hiện: khi đi, bước từng bước nhỏ với giậm chân lúc khởi động; chữ viết nhỏ; nói khó đơn điệu…
-Các triệu chứng khác: hồi hộp trống ngực, vã mồ hôi, rối loạn giấc ngủ, táo bón, đau mỏi các khớp, đau lưng, bất lực ở nam giới, rối loạn cơ tròn bàng quang, trầm cảm (buồn bã, chán nản)… đến giai đoạn cuối bệnh nhân có thể có khó thở và khó nuốt, thể trạng suy kiệt.
Mục đích điều trị là làm giảm các triệu chứng của bệnh như run, cứng, giảm động tác chứ không phải điều trị làm hết hẳn các triệu chứng để hạn chế tối đa tác dụng phụ của thuốc. Nâng cao thể trạng. Bệnh cần được điều trị suốt đời, gồm liệu pháp dùng thuốc và không dùng thuốc.
Liệu pháp không dùng thuốc, bên cạnh việc dùng thuốc, hồi phục chức năng có một vai trò quan trọng giúp cho người bệnh nâng cao chất lượng cuộc sống, bao gồm tập phục hồi chức năng vận động, ngôn ngữ, tập thể dục, đi bộ...
Ngày nay, với sự phát triển của y học, ở các nước tiên tiến, người ta có thể áp dụng phương pháp điều trị phẫu thuật (kích thích hoặc phá hủy một số tổ chức ở não hoặc cấy ghép tế bào gốc) trong những trường hợp bệnh giai đoạn cuối, không đáp ứng với thuốc điều trị.
Chăm sóc bệnh nhân Parkinson như thế nào?
Bệnh nhân cần được ăn đủ chất, thức ăn dễ tiêu, nhiều hoa quả, rau xanh, uống nhiều nước tránh táo bón. Vệ sinh thân thể, răng miệng và chế độ tập luyện và vận động hằng ngày. Các hoạt động thường xuyên sẽ làm hệ cơ mạnh và dẻo dai hơn. Đi bộ là một trong những phương pháp tập luyện tốt nhất và cùng với việc dùng thuốc nó giúp cho sự linh hoạt của cơ thể người bệnh tăng lên.
Một số động tác tập luyện đơn giản giúp cho người bệnh Parkinson kéo dài sự sống và vận động hiệu quả như các chuyên gia khuyến cáo và hướng dẫn:
-Đi bộ và xoay người (đi theo đường thẳng, bước từng bước dài và dạng tách hai chân để giữ thăng bằng tốt hơn, đong đưa hai tay đều đặn, khi cần xoay lại hãy đi thành đường cung tròn);
-Tập “đi” khi đang ngồi: ngồi trên ghế có lưng tựa, lần lượt nhấc đầu gối phải và trái lên cao như khi đang đi bộ. Lặp lại động tác này 10 lần;
-Ngồi lên khỏi giường khi đang nằm: xoay người nằm nghiêng và co hai đầu gối lại. Trước tiên, đặt hai chân ra khỏi giường sau đó dùng hai tay để chống trên mặt giường để ngồi dậy;
-Kéo vai: ngồi hoặc đứng với lưng thẳng đứng, hai tay để phía trước, hai bàn tay và hai khuỷu tay áp sát nhau. Đưa hai tay ra hai bên càng xa càng tốt sao cho hai bả vai sau lưng co lại gần nhau. Đưa tay về vị trí cũ ở trước mặt. Lặp lại động tác này 10 lần;
-Đứng lên và ngồi xuống: chọn những loại ghế tựa có tay vịn và chỗ ngồi chắc chắn. Khi muốn đứng lên phải nghiêng người về phía trước và dùng hai tay vịn vào bờ ghế để đẩy lên. Khi muốn ngồi xuống, quay lưng về phía ghế và nghiêng người về phía trước rồi từ từ ngồi xuống, dùng hai tay vịn trên tay nắm của ghế;
-Động tác vặn người: ngồi trên ghế, hai tay để trên vai và xoay phần trên của cơ thể từ phải qua trái và ngược lại. Làm càng nhanh càng tốt. Lặp lại động tác này 10 lần.
Hy vọng với các bài tập trên giúp cho người thân của bạn sống lâu, sống khỏe!
Lê Văn Phước, 40 tuổi, Sóc Trăng, 0918….
Hỏi: Tôi hỏi các bác sĩ một vấn đề này vì vừa qua tôi được các bác sĩ ở bệnh viện da liễu hồ chí minh chẩn đoán và cho thuốc điều trị đỏ da toàn thân. Tôi muốn hỏi bệnh đỏ da toàn thân là gì và nguyên nhân nào dẫn đến đỏ da toàn thân, cách điều trị như thế nào khỏi bệnh hoặc hạn chế diễn biến của bệnh. Tôi rất cảm ơn!
Trả lời:
Với câu hỏi của bạn, chúng tôi xin trả lời như sau: đỏ da toàn thân hay viêm da đỏ tróc vảy toàn thân, là tình trạng toàn thể da bệnh nhân đỏ khắp người như hình ảnh con tôm luộc từ đầu đến chân. Phù nề toàn thân, tiết dịch hoặc đỏ da bong vảy khô và rụng lông tóc. Bệnh do nhiều nguyên nhân nhưng nguyên do dùng thuốc “không có kiểm soát” dẫn đến bệnh đỏ da toàn thân là điều mà chúng ta cần lưu ý.
Bệnh có thể bắt đầu với những mảng đỏ, sưng phù, lan rộng nhanh chóng, cho đến khi toàn bộ da bị tổn thương. Khởi đầu có kèm theo các triệu chứng nhiễm độc của toàn thân. Da trở nên đỏ phù, có tiết dịch, tróc vảy da rất rõ sau vài ngày, vảy da khô hoặc ướt, mịn và khô nhỏ, có khi là mảng lớn. Mảng lớn thường gặp ở lòng bàn tay, bàn chân, da đầu thường có vảy dày kết hợp với chất bã nhờn và những sản phẩm của nhiễm khuẩn thứ phát. Kết mạc mắt và niêm mạc đường hô hấp cũng bị ảnh hưởng. Nhiễm khuẩn thứ phát do vi khuẩn sinh mủ thường làm cho diễn biến bệnh nặng hơn. Khi đó người bệnh sẽ thấy những dấu hiệu cơ năng như: ngứa, rét run, sốt, làm bệnh nhân khó chịu, xuất hiện nhiều mụn nước và mụn mủ toàn thân.
Nguyên nhân mắc bệnh đỏ da toàn thân
-Bệnh đỏ da toàn thân tiên phát hay gặp trong bệnh Willson-Brocq, bệnh nhân xuất hiện đỏ da lan dần toàn thân kèm theo xuất hiện hạch ngoại vi;
-Đỏ da toàn thân thứ phát xảy ra sau những bệnh da có từ trước như vảy nến, bệnh liken phẳng, chàm cấp, vảy nến đỏ nang lông, pemphigus dạng vảy lá, sau nhiễm khuẩn, nhất là liên cầu, do bệnh máu ác tính, u sùi dạng nấm, biểu mô bào lưới, lympho Hodgkin;
-Đỏ da toàn thân bẩm sinh;
-Đỏ da toàn thân do thuốc hay gặp nhất so với các nguyên nhân khác (một trong những biểu hiện lâm sàng của dị ứng nhiễm độc da với các thể hồng ban đa dạng, hội chứng Steven Johnson, hội chứng Lyell, hồng ban cố định nhiễm sắc. Đỏ da toàn thân do thuốc được xem như một bệnh da cấp cứu. Thường do dùng dài ngày, liều cao, hay gặp trong quá trình điều trị bằng các thuốc kháng sinh như penicilline, streptomycine, sulfamide, chlorocide, quinine; thuốc an thần gardenan, barbiturate; thuốc hạ nhiệt giảm đau: pyramidon; thủy ngân, asen, cà độc dược, mã tiền... những thuốc này hay gây dị ứng ở những bệnh nhân có cơ địa mẫn cảm;
-Biểu hiện của đỏ da toàn thân do thuốc xuất hiện đột ngột sau khi dùng thuốc dưới các dạng tiêm, uống, xông hoặc bôi, bệnh nhân thấy sốt cao kèm theo rét run, đau đầu, rối loạn tiêu hóa, cơ thể mệt mỏi uể oải, ngứa da. Sau 1 - 2 ngày bệnh đến giai đoạn toàn phát: bệnh nhân tiếp tục ngứa khắp người, ở đầu chi và mi mắt ngứa nhiều hơn, da đỏ và loang rộng khắp cơ thể. Có thể bong vảy da ở vùng da mỏng, vảy bong như vảy phấn. Đồng thời với tổn thương da còn xuất hiện các triệu chứng: nổi hạch nhiều nơi, hạch to, di động và đau; gan to, có biểu hiện rối loạn chức năng; phù, tiểu ít, có albunin niệu, hồng cầu, bạch cầu và trụ niệu; trường hợp nặng có thể vô niệu; urê huyết cao, rối loạn điện giải. Thời kỳ lui bệnh, thường khoảng từ ngày thứ 10 trở đi, nếu được điều trị tốt, bệnh nhân đỡ hoặc hết sốt, da bớt đỏ dần và trở nên sẫm màu. Tuy tổn thương da thuyên giảm nhưng lại xuất hiện các rối loạn chức năng của các cơ quan như: rối loạn dự trữ kiềm, toan hóa máu, urê huyết cao, rối loạn điện giải, rối loạn chức năng gan, thận. Nhiều tai biến dẫn đến cấp cứu nội khoa cũng hay xảy ra ở thời kỳ này;
-Một số trường hợp người lớn trưởng thành hiện nay có ý tưởng đi tắm trắng để có được làn da như mong muốn, sau đó để lại hậu quả như đỏ da toàn thân trên một số phụ nữ báo cáo gần đây, cần phân biệt đỏ da do thuốc và đỏ da co tác động cơ học khác;
-Một số thuật ngữ cần gián biệt khi tra cứu bệnh lý là red skin syndrome (hội chứng đỏ da), hay đỏ da (erythroderma),…
Nguyên tắc và thái độ xử trí của đỏ da toàn thân
Nguyên tắc điều trị là tùy theo nguyên nhân và mức độ của bệnh mà có cách điều trị thích hợp. Thận trọng trong việc dùng thuốc tại chỗ và toàn thân. Người bệnh nặng phải được điều trị ở những nơi có hệ thống cấp cứu kịp thời. Kết hợp cả điều trị toàn thân và điều trị tại chỗ. Với toàn thân cần truyền dịch, truyền đạm, dinh dưỡng thích hợp. Dùng vitamine C liều cao, kháng sinh và corticoid kèm theo tùy theo từng trường hợp. Khi dùng thuốc điều trị tại chỗ cần lưu ý thận trọng vì trên nền da người bệnh đã bị viêm nhiễm, mất sức đề kháng nên dễ gây phản ứng, dị ứng tùy theo giai đoạn của tổn thương, cấp, bán cấp và mạn tính mà có thuốc bôi cho thích hợp.
Nên kiểm tra sức khỏe ít nhất 1 lần/năm để phát hiện bệnh sớm, tránh mọi yếu tố như thuốc, hóa chất có thể gây tổn thương da. Vệ sinh da tốt theo đúng hướng dẫn của thầy thuốc. Khi mắc bệnh ngoài da cần phải đến ngay bác sĩ chuyên khoa, không được tự động bôi thuốc dù bệnh rất nhẹ. Không dùng thuốc bừa bãi kể cả thuốc tại chỗ và toàn thân khi chưa có chỉ định của bác sĩ. Trong gia đình có người bị dị ứng do thuốc thì các thành viên khác nên cẩn thận khi phải dùng thuốc chữa bệnh. Khi dùng thuốc nên ghi nhận những thuốc đã dùng và theo dõi trong vài ngày sau để phát hiện những biểu hiện bệnh ở da.
Bệnh đỏ da toàn thân hay gặp nhất là nguyên nhân do thuốc, thường chiếm 2-3% bệnh nhân nhập viện. Việc sử dụng thuốc bừa bãi là một trong những nguyên nhân dẫn đến đỏ da toàn thân do thuốc. Bệnh thường xảy ra ở người cao tuổi, nhất là phụ nữ. Ða số các trường hợp bệnh phản ứng nhẹ, thường kèm ngứa, triệu chứng giảm sau ngưng thuốc. Tuy nhiên cũng có trường hợp nặng đe dọa tính mạng bệnh nhân và khó tiên lượng.
Với các thông tin trên hy vọng bạn sẽ biết đươc một số thông tin cần thiết và tối thiểu về bệnh đỏ da toàn thân.
Đào Thị L, 50 tuổi, TT Phú Túc, Krongpa, Gia Lai, 0126….
Hỏi: Xin thưa các bác sĩ cho tôi hỏi, ông chồng tôi năm nay 52 tuổi bị chẩn đoán gút đã 6 năm nay, nhưng do tính chất công việc kinh doanh thường xuyên tiếp khác và uống nhiều bia rượu, nên cứ vài tuàn là bọ lại và đau nhức không thể chịu được. Tôi không biết chế độ ăn uống cho người bệnh gút như thế nào cho phải, mong nhận được sự tư vấn và lời khuyên từ bác sĩ. Trân trọng cảm ơn!
Trả lời:
Đây là một câu hỏi mang tính thời đại bởi các bệnh lý như thế thuộc nhóm bệnh chuyển hóa các chất, do chế độ ăn gây ra, tạo cho acide uric trong máu tăng cao và tạo các nốt atopi, gây đau các khớp,…và một trong những vấn đề khó điều trị bệnh gút chính là chế độ ăn kiêng khem không thực hiện đầy đủ, rượu bia cũng là một trong những nguyên do gây nặng thêm bệnh. Do vậy, chế độ ăn uống hợp lý sẽ làm cho chồng bạn giảm được bệnh rất nhiều.
Một số thức ăn dùng hạn chế
·Hạn chế protid (<1g protein/kg/ ngày tương đương < 200g thịt nạc mỗi ngày).
·Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) đồ biển (tôm, cua…).
·Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) các loại đậu hạt, măng tây.
·Không ăn nhiều (vừa phải, điều độ) chocolate, cacao, trà, cà phê.
Một số thức ăn nên dùng nhiều
·Các loại rau xanh, trái cây tươi.
·Uống nhiều nước, nước khoáng có bicarbonate, nước sắc lá xakê.
·Các loại ngũ cốc.
·Sữa, trứng.
·Chế độ sinh hoạt
·Chống béo phì.
·Tăng cường vận động.
·Tránh stress, tránh gắng sức, tránh lạnh đột ngột…
Trong đa số trường hợp, chế độ ăn uống góp phần điều trị cho bệnh gút và các bệnh kèm theo (cao huyết áp, đái tháo đường, rối loạn lipid máu…) chứ không thể thay được thuốc. Thực hiện tốt chế độ ăn uống có thể giảm bớt số lượng thuốc, số loại thuốc cần dùng, giảm bớt các hậu quả xấu của bệnh. Chế độ ăn uống được sử dụng để thay thế thuốc trong một số ít trường hợp, người bệnh không dùng được các thuốc làm hạ acid uric (dị ứng thuốc, suy thận, suy gan…).
Chế độ ăn uống và chế độ sinh hoạt sẽ giúp phòng ngừa bệnh gút, làm giảm số người trở thành bệnh nhân gút. Như vậy, chế độ ăn uống không thể thay thế được các thuốc điều trị bệnh Gout, nhưng có một vai trò quan trọng trong điều trị, góp phần làm bệnh gút và các bệnh kèm theo dễ kiểm soát hơn, giảm bớt liều thuốc phải dùng, giảm bớt số thuốc phải dùng. Chế độ ăn uống càng quan trọng hơn khi người bệnh bị dị ứng với các thuốc làm giảm acid uric máu, hoặc vì một lý do nào đó không sử dụng được các thuốc này. Chế độ ăn uống còn là biện pháp chính, không thể thiếu được trong việc phòng ngừa bệnh gút cho các đối tượng có tăng acid uric máu đơn thuần.
Cũng cần lưu ý về phương thức chẩn đoán và điều trị hiện nay theo ý kiến của các chuyên gia rất nghiêm ngặt, không phải trường hợp nào có tăng acide uric quá ngưỡng cho phép đều phải kê thuốc điều trị hoặc cho thuốc hạ acid uric là không nên, cần tham vấn ý kiến bác sĩ và trước khi dùng thuốc thì nên có chết độ ăn thích hợp để giảm bớt tình trạng tăng acide uric, khi không có khả thi thì mới dùng đến thuốc nhé!
Triệu Quang Long, 26 tuổi, cử nhân CNTT, ĐH Bách khoa TP. Hồ Chí Minh
Hỏi: Bác sĩ ơi, tôi bị viêm đại tràng nhiều năm qua nhưng khi đi điều trị, uống thuốc thì giảm bớt được vài tháng, đi ăn tiệc uống chút bia, rượu hoặc ăn lạ lạ vào thì triệu chứng tái phát, khi khám bác sĩ các nơi đề chẩn đoán tôi bị IBS, hội chứng đại tràng kích thích, viêm đại tràng co thắt,…tôi không biết các bệnh lý này có giống nhau không, hay khác nhau. Xin bác sĩ giải thích.
Trả lời:
Rất cảm thông với các triệu chứng bệnh lý đại tràng của bạn, thực ra các thuật ngữ chẩn đoán của các bác sĩ tại các bệnh viện khác nhau đề cập trên bệnh của bạn là tương đương nhau và có biểu hiện triệu chứng gần như giống nhau, trong đó từ IBS viết tắt của cụm từ Irritable Bowel Syndrome, cũng là hội chứng đại tràng kích thích.
Một số tác giả khi chẩn đoán hay dùng thuật ngữ viêm đại tràng hay viêm đại tràng co thắt gây ra đau đớn và là nỗi ám ảnh có nhiều bệnh nhân mắc chứng bệnh này. Viêm đại tràng co thắt hay còn gọi là hội chứng ruột kích thích (IBS), rối loạn chức năng đại tràng, bệnh đại tràng chức năng. Các rối loạn tiêu hóa mạn tính tái đi tái lại, kéo dài ít nhất 3 tháng mà không làm thay đổi cấu trúc hay yếu tố sinh hóa của dạ dày, ruột. Viêm đại tràng co thắt có liên quan chặt chẽ tới tỷ lệ thực phẩm thông qua đại tràng thay đổi .Viêm đại tràng co thắt là bệnh hay gặp ở người lớn tuổi, nhưng nhóm tuổi trung niên trong cuộc sống hiện đại, với nhiều bia rượu như hiện nay, tỷ lệ mắc bệnh cũng chiếm tỷ lệ không nhỏ.
Việc phòng tránh viêm đại tràng một cách hiệu quả thì lời khuyên cho bạn là bạn nên đi khám định kỳ 6 tháng một lần để phát hiện ra bệnh. Một khi đã có dấu hiệu của bệnh bạn cần đi khám bệnh ở chuyên khoa tiêu hóa để xác định nguyên nhân và điều trị dứt điểm ngay từ đầu, không để bệnh trở thành mạn tính. Để phòng bệnh, cần ăn uống đảm bảo vệ sinh. Không nên lạm dụng gia vị, rượu, bia, chất chua, cay trong các bữa ăn hằng ngày…
Viêm đại tràng co thắt được phân thành 3 loại cơ bản: (i) Loại 1 có hiện tượng đau bụng và tiêu chảy; Loại 2 có hiện tượng đau bụng và táo bón; Loại 3: Có hiện tượng đau bụng, vừa tiêu chảy lại vừa táo bón.
Có khoảng 20% dân số trên thế giới bị viêm đại tràng co thắt. Riêng tại Việt
Nguyên nhân của viêm đại tràng co thắt rất đa dạng, và một trong những nguyên nhân điển hình có thể kể tới là: (i) Viêm đường ruột bởi ăn phải thức ăn không hợp vệ sinh - thức ăn có vi khuẩn thương hàn gây bệnh, vi khuẩn lỵ hoặc Entamoeba histolytica; (ii) Do rối loạn nhu động ruột; (iii) Do dùng quá nhiều kháng sinh đường ruột gây loạn khuẩn; (iv) Do rối loạn tâm thần, sang chấn tâm thần…
Việc chẩn đoán ra bệnh viêm đại tràng co thắt được xem là khó khăn và phức tạp. Với từng bệnh nhân mà bác sĩ đưa ra các chỉ định xét nghiệm khác nhau và còn tùy thuộc vào trang thiết bị của từng phòng xét nghiệm. Đôi khi chỉ khai thác các triệu chứng lâm sàng và thói quen đại tiện của bệnh nhân, cũng như tính chất đặc cứng hoặc lỏng của phân cũng giúp cho các thầy thuốc xác định bệnh gàn như 90% số ca bệnh.
·Trường hợp bệnh nhân bị nghi loạn khuẩn có thể cho xét nghiệm vi khuẩn chí, xét nghiệm tìm các loại trứng giun, sán
·Nếu trường hợp nghi ngờ nhiễm viêm đại tràng với lý do khác có thể cho chụp khung đại tràng có thuốc cản quang, và nếu có điều kiện thì có thể tiến hành nội soi đại tràng …Bệnh viêm đại tràng co thắt ảnh hưởng lớn đến chất lượng cuộc sống (không thoải mái, kiêng khem quá mức, hay cáu gắt dễ nổi nóng, lúc nào cũng lo đến bệnh tật của mình).
Bệnh viêm đại tràng co thắt có rất nhiều triệu chứng khác nhau, nhưng triệu chứng điển hình nhất của viêm đại tràng co thắt là đau bụng. Đau bụng đa dạng, có thể đau sau khi ăn, có thể đau khi ăn no, đặc biệt là đau sau khi ăn một số thức ăn lạ, chua, cay, lạnh…Do cơn đau dai dẳng, đặc biệt đau sau khi ăn, thế nên hầu hết người bệnh bị viêm đại tràng co thắt không dám ăn những thức ăn có dạng như vậy.
Khi căng thẳng, stress thì cơn đau xuất hiện nhiều hơn. Viêm đại tràng co thắt thường đau vùng bụng ở dưới rốn, đau quặn, ợ hơi, đầy bụng, chướng hơi, khó tiêu, dễ gây nhầm với bệnh đau dạ dày. Hầu hết người bệnh đều cho biết, hết cơn đau bụng sau khi đi đại tiện. Nhưng, cũng có nhiều bệnh nhân viêm đại tràng co thắt mạn tính thì vừa đi ngoài xong chưa vào đến phòng nghỉ đã xuất hiện cơn đau quặn bụng khác muốn đi ngoài tiếp.
Trên thực tế có nhiều bệnh nhân viêm đại tràng không hề có chút gì bia rượu và chế độ ăn rất thích hợp, cũng như các xét nghiệm nhiều lần và nhiều mẫu phân liên tiếp đều không xác định vi khuẩn hoặc tác nhân gây bệnh khác nhau.
Ngày 06/05/2015 |
TS.BS. Huỳnh Hồng Quang, PGS.TS. Triệu Nguyên Trung |
|
||||
|
|
|
|
|
|
| |
Trang tin điện tử Viện Sốt rét - Ký Sinh trùng - Côn trùng Quy Nhơn Giấy phép thiết lập số 53/GP - BC do Bộ văn hóa thông tin cấp ngày 24/4/2005Địa chỉ: Khu vực 8-Phường Nhơn Phú-Thành phố Quy Nhơn-Tỉnh Bình Định.Tel: (84) 0256.3846.892 - Fax: (84) 0256.3647464 Email: impequynhon.org.vn@gmail.com Trưởng Ban biên tập: TTND.PGS.TS. Hồ Văn Hoàng-Viện trưởng Phó Trưởng ban biên tập: TS.BS.Huỳnh Hồng Quang-Phó Viện trưởng |
• Thiết kế bởi công ty cổ phần phần mềm: Quảng Ích |