Huyền Trân là công chúa của đời Trần đã có công với nước trong một cuộc hôn nhân chính trị, đổi lấy đất đai của Chiêm Thành, mở rộng bờ cõi của nước ta về phía nam. Để tưởng nhớ công đức của Bà, thành phố Huế đã xây dựng Đền thờ Huyền Trân dưới chân núi Ngũ Phong và tổ chức lễ hội tưởng niệm hàng năm. Lễ hội Huyền Trân năm 2010 sẽ diễn ra vào ngày 21 và 22 tháng 2, nhằm ngày 8 và 9 tháng Giêng năm Canh Dần tại Trung tâm Văn hóa Huyền Trân thuộc phường An Tây, thành phố Huế.
Vài nét về lịch sử Công chúa Huyền Trân
Huyền Trân Công chúa sinh năm 1287. Vào năm 1293, Vua Trần Nhân Tông thoái vị, Hoàng thái tử Trần Thuyên lên nối ngôi, tức là Hoàng đế Trần Anh Tông. Vua Trần Nhân Tông trở thành Thái thượng hoàng, lên tu ở núi Yên Tử. Năm 1301, Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông nhận lời mời, du ngoạn vào Chiêm Thành, được vua Chiêm Thành là Chế Mân tiếp đãi nồng hậu, có ở lại trong cung điện Chiêm Thành gần 9 tháng. Khi ra về, Trần Nhân Tông có hứa gả con gái là Huyền Trân cho Chế Mân, mặc dù khi đó Chế Mân đã có Chính thất là Hoàng hậu Tapasi, người Java (Indonesia ngày nay). Sau đó nhiều lần Chế Mân sai sứ sang hỏi về việc hôn lễ, nhưng triều thần nhà Trần phản đối, chỉ có Văn Túc Vương Đạo Tái và Nhập nội hành khiển Trần Khắc Chung chủ trương tán thành.
 |
(Ảnh: Võ Thanh Tuấn) |
Năm 1306, Chế Mân dâng hai châu Ô, Rý (còn gọi là Lý) làm hồi môn, Vua Trần Anh Tông đồng ý gả Huyền Trân cho Chế Mân. Huyền Trân về Chiêm Thành, được phong làm Hoàng hậu Paramecvari. Một năm sau đó, khi Hoàng hậu người Đại Việt vừa sinh xong hoàng tử Chế Đa Đa, thì tháng 5 năm 1307, Quốc vương Chế Mân băng hà. Thế tử Chiêm Thành sai sứ sang Đại Việt báo tang. Theo tục nước Chiêm Thành, khi vua chết hoàng hậu phải lên dàn hỏa để tuẫn tang. Vua Trần Anh Tông biết tin, sai Trần Khắc Chung giả vờ sang viếng tang, tìm cách cứu Huyền Trân. Trần Khắc Chung bày kế thành công, cứu được Huyền Trân đưa xuống thuyền, trở về nước Đại Việt bằng đường biển. Cuộc hải hành này kéo dài tới một năm và theo Đại Việt Sử ký Toàn thư thì Trần Khắc Chung đã tư thông với công chúa.
Tháng 8 năm Mậu Thân 1308, Huyền Trân về đến Thăng Long. Theo di mệnh của Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông, công chúa đầu gia Phật giáo ở núi Trâu Sơn (nay thuộc Bắc Ninh) vào năm 1309, dưới sự ấn chứng của Quốc sư Bảo Phát. Công chúa thọ Bồ tát giới và được ban pháp danh Hương Tràng.
Cuối năm Tân Hợi 1311, Hương Tràng cùng một thị nữ trước đây, bấy giờ đã qui y đến làng Hổ Sơn, huyện Thiên Bản (nay thuộc Nam Định), lập am dưới chân núi Hổ để tu hành. Sau đó, am tranh trở thành Điện Phật, tức Chùa Nộm Sơn hay còn gọi là Quảng Nghiêm Tự.
 |
Đền thờ Huyền Trân Công chúa (Ảnh: Võ Thanh Tuấn) |
Công chúa Huyền Trân mất vào ngày mồng 9 tháng Giêng năm Canh Thìn 1340. Dân chúng quanh vùng thương tiếc và tôn bà là "Thần Mẫu", lập đền thờ cạnh Chùa Nộn Sơn. Các triều đại sau đều sắc phong bà là Thần hộ quốc. Vua triều Nguyễn ban chiếu đền ơn công chúa "trong việc giữ nước giúp dân, có nhiều linh ứng", nâng bậc tăng là "Trai Tĩnh Trung Đẳng Thần".
Một số thi ca về Huyền Trân Công chúa
Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo
Nước non ngàn dặm ra đi...
Mối tình chi!
Mượn màu son phấn
Đền nợ Ô, Ly.
Xót thay vì,
Đương độ xuân thì.
Số lao đao hay là nợ duyên
Năm tê trong lúc sang Xuân
Tôi theo Công chúa Huyền Trân tôi lên đường
Đường máu xương đã lắm oán thương
Đổi sắc hương lấy cõi giang san
Tôi đi theo bước ái tình
Đi cho trăm họ được hòa bình ấm no
Đèo núi cao nghe gió vi vu
Thổi phấn son bay tới kinh đô....
Đổi chác khôn ngoan khéo nực cười,
Vốn đà không mất lại thêm lời,
Hai châu Ô Lý vuông ngàn dặm,
Một gái Huyền Trân của mấy mươi... !
Tưởng nhớ công đức Huyền Trân Công chúa
Ngày mất của Công chúa Huyền Trân, mồng 9 tháng Giêng âm lịch, đã được người dân Cố đô Huế ghi nhớ và hàng năm đều tổ chức Ngày Lễ hội Đền Huyền Trân ở Trung tâm Văn hóa Huyền Trân tại núi Ngũ Phong, thuộc phường An Tây, thành phố Huế để tưởng niệm một người có công với nước.
Lễ hội năm 2010 được tổ chức với các hoạt động như Đại lễ cầu nguyện “Quốc thái, dân an”, hội thảo “Phụ nữ Việt Nam trong di sản văn hóa dân tộc”, chương trình khai mạc lễ hội, dâng hương. Ngoài ra còn có các chương trình đồng hành như trưng bày và giới thiệu hàng thủ công mỹ nghệ về nón lá Huế, sản phẩm thêu, dệt thổ cẩm, chạm khảm, điêu khắc, đúc đồng, mây tre đan, triển lãm thư pháp ... Đây là một hoạt động văn hóa nằm trong khuôn khổ Festival Huế 2010, gắn với liền với những sự kiện kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long-Hà Nội.