Nobel Y học 2014 được trao cho 3 nhà khoa học nghiên cứu về tế bào định vị trong não bộ
Ngày 6/10, một nhà khoa học mang 2 quốc tịch Anh-Mỹ và 2 nhà nghiên cứu người Na Uy đã được trao giải Noble Y học năm nay với thành công trong việc khám phá ra “hệ thống GPS trong não bộ” đóng vai trò định hướng cho hầu hết sinh vật trên Trái đất.
Nhà khoa học người Anh-Mỹ John O’Keefe sẽ được trao một nửa trong số tiền 8 triệu kronor (1,1 triệu USD) của giải thưởng khoa học danh giá nhất hành tinh này. Vợ chồng May-Britt Moser và Edvard I. Moser được nhận 4 triệu kronor còn lại, Viện Karolinska (Thụy Điển) cho biết. Trong thông cáo báo chí của mình, Viện Karolinska – đơn vị công bố giải Nobel Y học – cho rằng phát hiện của 3 nhà khoa học này đã “giải quyết một vấn đề làm đau đầu các nhà triết học và khoa học trong suốt nhiều thế kỷ”. Ông Goran K. Hansson, thư ký Ủy ban Nobel của Viện Karolinska cho biết phát hiện này đã giúp chúng ta biết mình đang ở đâu, tìm đường từ nơi này đến nơi khác như thế nào và lưu trữ thông tin cho lần đi lại tiếp theo ra sao. Bác sĩ O’Keefe đã phát hiện ra thành phần đầu tiên của hệ thống định vị trong não chuột vào năm 1971. Ông đã xác định những tế bào thần kinh cụ thể trong vùng hải mã (hyppocampus) của não bộ được kích hoạt khi những con chuột được đặt tại những vị trí nhất định trong phòng thí nghiệm. Ông đã gọi đây là những “tế bào địa điểm”. Hơn 30 năm sau, vợ chồng nhà Moser đã phát hiện ra một loại tế bào thần kinh khác trong não bộ giúp chúng ta có thể xác định vị trí và điều phối thông tin về vị trí. Hai nhà khoa học này gọi các tế bào mà họ phát hiện ra là “tế bào lưới”. Phát hiện về 2 loại tế bào này cuối cùng đã giúp nhân loại hiểu rõ hơn nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất ý thức về không gian của những bệnh nhân Alzheimer và các bệnh về thần kinh khác.
Theo thông lệ, giải Noble sẽ được trao cho các nhà khoa học trong một bữa tiệc ở Stockholm vào ngày 10/10 tới đây để kỷ niệm ngày mất của người sáng lập giải này là Alfred Nobel vào năm 1896. Giải Nobel trong các lĩnh vực khác sẽ được công bố vào những ngày tới đây.  |
3 nhà khoa học đoạt giải Nobel Y học trong năm nay |
Nhà khoa học Mỹ gốc Anh John O'Keefe cùng cặp vợ chồng nhà khoa học Na Uy May-Britt và Edvard Moser đã vừa giành giải Nobel Y học 2014, vì phát hiện ra hệ thống định vị nằm bên trong não bộ con người. Đây là lần đầu tiên sau thời gian dài lại có một cặp vợ chồng cùng nhau nhận lấy giải thưởng danh giá nhất trong làng khoa học. Hội đồng Nobel, nơi trao giải Y học trị giá 8 triệu crown Thụy Điển (1,1 triệu USD), nói trong thông cáo báo chí đưa ra tại Viện Karolinska Thụy Điển rằng phát hiện của 3 nhà khoa học giúp giải quyết một vấn đề đã nằm trong mối quan tâm của nhiều nhà triết học và nghiên cứu trong nhiều thế kỷ: Làm thế nào để não bộ tạo ra một bản đồ về không gian bao quanh chúng ta và giúp chúng ta tìm đường ra khỏi một môi trường phức tạp.
“Hệ thống định vị toàn cầu” tự nhiên
Ole Kiehn, một thành viên Nội đồng Nobel và là giáo sư Khoa khoa học thần kinh tại Viện Karolinska cho biết 3 nhà khoa học về cơ bản đã tìm thấy “một hệ thống định vị toàn cầu nằm trong não bộ, khiến chúng ta biết mình đang ở đâu và giúp ta tìm được đường đi”.
|
Giáo sư Ole Kiehn xướng tên những người đoạt giải Nobel Y học 2014 |
O'Keefe, người là giám đốc trung tâm nghiên cứu mạch thần kinh và hành vi tại Đại học College London, đã phát hiện thành phần đầu tiên của hệ thống định vị này vào năm 1971. Thời điểm đó, ông tìm thấy một loại tế bào thần kinh nằm ở khu vực não có tên hồi cá ngựa (hippocampus), đã luôn hoạt động khi một con chuột được để tại một khu vực nhất định trong một căn phòng. Nhận thấy rằng các tế nào khác nằm ở khu vực này cũng sẽ được kích hoạt, khi con chuột đi tới vị trí khác trong phòng, O'Keefe kết luận rằng “các tế bào nhận diện vị trí” đó đã giúp lập bản đồ căn phòng trong não chuột.
Năm 1996, hai nhà khoa học Edvard Moser và May-Britt Moser (nay thành vợ chồng và đang làm việc tại các viện nghiên cứu ở Trondheim, Na Uy) đã hợp tác với O'Keefe để nghiên cứu cách ghi lại hoạt động của các tế bào ở vùng hồi cá ngựa.
Gần 1 thập kỷ sau, đội Moser đã phát hiện ra các tế bào nằm trong khu vực vỏ não nội cứu (entorhinal cortex) của chuột có vai trò như một hệ thống định vị. Các tế bào này thường xuyên hoạt động để tạo ra một bản đồ về thế giới bên ngoài và chịu trách nhiệm giúp các loài động vật biết rõ mình đang ở đâu, đã đi qua những đâu và sẽ tới đâu.
Việc phát hiện hệ thống định vị kể trên được đánh giá có thể giúp thấu hiểu nguyên nhân gây ra tình trạng mất nhận thức về không gian ở các bệnh nhân bị đột quỵ , những người bị chứng quên, chứng suy giảm trí nhớ Alzheimer – căn bệnh đang ảnh hưởng tới 44 triệu người trên toàn cầu.
 |
Vợ chồng nhà Moser đã gia nhập một nhóm nhỏ các cặp vợ chồng từng cùng nhau giành giải Nobel |
Nhảy múa và la hét khi hay tin
Được biết May-Britt Moser đang thảo luận về dữ liệu nghiên cứu với các cộng sự tại Trondheim khi Tổng thư ký Hội đồng Nobel gọi điện cho bà từ Viện Karolinska. “Tôi đã suýt nữa không nghe máy vì hoạt động thảo luận đang diễn ra sôi nổi” – bà nói. Khi nhận được tin, bà đã nhảy múa và uống sâm-panh cùng với các cộng sự. “Điều này thật tuyệt vời, điều này thật điên rồ. Tôi chỉ còn biết nhảy lên và la hét” – Moser nói với hãng tin Reuters – “Tôi quá đỗi tự hào về tất cả những sự ủng hộ mà chúng tôi nhận được. Mọi người đã tin vào chúng tôi, vào điều chúng tôi đã làm và giờ thì phần thưởng tới”. Đài truyền hình Na Uy phát hình ảnh cho thấy các đồng nghiệp hát bài “Happy Nobel to you" (Mừng đoạt giải Nobel), theo giai điệu của ca khúc "Happy Birthday" (Mừng sinh nhật) bất hủ. Chồng của bà May-Britt Moser đã không nhận được tin đoạt giải do ông đang trên máy bay tới Munich, Đức. Ông chia sẻ sau đó với hãng tin NTB của Na Uy rằng có người mang hoa chờ sẵn mình ở Munich và báo với ông tin mừng.
John Stein, giáo sư danh dự bộ môn sinh lý học tại Oxford, nói rằng phát hiện của bộ 3 nhà khoa học trên đã từng bị bác bỏ, bị nhạo báng, trước khi được công nhận. “Đây thật là tin tuyệt vời” – ông Stein chia sẻ – “Tôi còn nhớ người ta đã chê bai dữ dội vào đầu những năm 1970, khi John lần đầu mô tả các tế bào định vị. “Dựa trên các chứng cứ giả tạo” và “ông ta rõ ràng đã đánh giá thấp khứu giác của chuột” là một trong những phản ứng điển hình khi đó. Giờ thì người ta lại nói: “Chà, hiển nhiên là thế rồi””.
Tham gia một CLB danh giá
Reuters cho biết vợ chồng nhà Moser đã gia nhập một CLB nhỏ các đôi vợ chồng từng giành giải Nobel cùng nhau. Trong số này, nổi tiếng nhất là hai nhà khoa học vĩ đại Pierre Curie và Marie Curie (Nobel Vật lý 1903). Con gái nhà Curie là Irene Joliot-Curie và chồng Frederic Joliot-Curie cũng đã cùng nhau giành giải Nobel Hóa học vào năm 1935. Trong khi đó Gerty Theresa Cori và vợ Gerty Theresa Cori đoạt giải Nobel Y học 1947. Cặp vợ chồng duy nhất giành 2 giải Nobel khác nhau là Gunnar Myrdal (Nobel Kinh tế 1974) và vợ Alva Myrdal (Nobel Hòa bình 1982). Ngoài ra, giải Nobel đã được trao cho 5 cặp cha con và 1 cặp anh em. Marie Curie còn giành giải Nobel Hóa học 1911, khiến nhà Curie là gia đình giành nhiều giải Nobel nhất lịch sử, với tổng cộng 5 giải Nobel.
Giải thưởng Nobel sinh lý học và y học qua các năm
Y học là giải đầu tiên được công bố trong mùa giải Nobel thường niên. Các giải thưởng cho khoa học tự nhiên, văn chương và hòa bình được trao lần đầu vào năm 1901 theo di chúc của nhà phát minh ra thuốc nổ Alfred Nobel. Được biết trong danh sách những người nhận giải Y học có nhiều nhà khoa học tiếng tăm lừng lẫy như Alexander Fleming do phát hiện kháng sinh penicillin; Ivan Pavlov với nghiên cứu về hoạt động của hệ tiêu hóa và Robert Koch vì các phát hiện liên quan tới bệnh lao phổi.
Giải Nobel Sinh lý học và Y khoa là một giải thưởng thường niên của Viện Caroline (Karolinska Institutet). Đây là một trong năm giải Nobel do Alfred Nobel thành lập vào năm 1895 trao cho các lĩnh vực Vật lý, Hóa học, Văn học, Hòa bình, cùng Sinh lý học và Y khoa từ năm 1901. Người nhận giải Nobel sinh lý học và y khoa đầu tiên là nhà khoa học người Đức Emil Adolf von Behring với "khám phá của ông về các chất huyết thanh, đặc biệt là cách sử dụng chúng để chữa bệnh bạch hầu". Mỗi nhà khoa học nhận được một huy chương, bằng chứng nhận và cùng với phần thưởng tài chính, số tiền thưởng hàng năm có thay đổi theo thời gian. Như năm 1901, von Behring nhận được phần thưởng trị giá 150.782 SEK, tính ra tương đương với 7.731.004 SEK với tỉ giá vào thời điểm tháng 12 năm 2008. Kể từ năm 2001, giải thưởng tài chính hàng năm là 10.000.000 SEK. Lễ trao giải thưởng được diễn ra hàng năm ở Stockholm vào ngày 10 tháng 12, đúng vào ngày mất của Nobel.
Trong năm 2011, giải thưởng được trao cho Bruce A. Beutler (quốc tịch Mỹ), Jules A. Hoffmann (quốc tịch Pháp) và Ralph M. Steinman (quốc tịch Canada) cho những công trình nghiên cứu liên quan đến hệ miễn dịch. Ba nhà khoa học đã nhận một giải thưởng trị giá 10.000.000 SEK, tương đương với 1 triệu € hay 1,4 triệu USD.
Dù trong cuộc sống thường ngày, đôi khi giải được gọi là giải Nobel Y học, nhưng đúng như mong muốn của Nobel, ông đã viết cụ thể rằng giải thưởng được trao cho các đóng góp thuộc các lĩnh vực "Sinh lý học hay y học" trong di chúc của mình. Bởi vì điều này, giải thưởng có thể được trao trong một phạm vi khá rộng lớn. Trong các công trình nghiên cứu liên quan đến Sinh lý học và y khoa, giải thưởng đã được trao cho 8 công trình nghiên cứu về protein, 13 công trình nghiên cứu về khoa học thần kinh và 13 công trình liên quan đến quá trình trao đổi chất trong cơ thể. Tính đến năm 2011, giải thưởng được trao cho 199 cá nhân, trong đó có 10 người là phụ nữ, bao gồm: Gerty Cori (năm 1947), Rosalyn Yalow (năm 1977), Barbara McClintock (năm 1983), Rita Levi-Montalcini (năm 1986), Gertrude B. Elion (năm 1988), Christiane Nüsslein-Volhard (năm 1995), Linda B. Buck (năm 2004), Françoise Barré-Sinoussi (năm 2008), Elizabeth H. Blackburn và Carol W. Greider (năm 2009). Giải Nobel Sinh lý học và Y học không được trao vào các năm 1915, 1916, 1917, 1918, 1921, 1925, 1940, 1941, 1942.
Tính đến năm 2011, sau 102 lần trao giải, giải thưởng đã 38 lần được trao cho một cá nhân duy nhất, 31 lần được trao cho hai cá nhân và 33 lần được trao cho ba cá nhân. Tuổi trung bình của những nhà khoa học khi đoạt giải là 57 tuổi, trong đó trẻ nhất là Frederick G. Banting, được trao giải năm 1923 khi mới 32 tuổi. Còn lớn tuổi nhất là Peyton Rous, người được vinh danh năm 1966 khi đã ở tuổi 87.
Trong những nhà khoa học đoạt giải, có vợ chồng Gerty Cori và Carl Cori cùng đoạt giải năm 1947. Ngoài ra, cũng có thể kể đến trường hợp của Ulf von Euler, người đoạt giải năm 1970, là con trai của Hans von Euler-Chelpin (nhà Nobel Hóa học năm 1929). Trường hợp của Arthur Kornberg, người đoạt giải năm 1959, sau này có con trai là Roger D. Kornberg (đoạt giải Nobel Hóa học năm 2006). Cùng với Nikolaas Tinbergen, người đoạt giải năm 1973, là em trai của Jan Tinbergen (đoạt giải Nobel Kinh tế năm 1969). Dưới đây là danh sách những người đoạt giải Nobel Sinh lý học và Y khoa từ năm 1901 đến nay. Thập niên 2010 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
2013 | James E. Rothman
Randy Schekman
Thomas C. Südhof
| "được trao giải thưởng vì khám phá về sự vận chuyển bằng túi tiết trong tế bào" | [8] | 2012 | John B. Gurdon
Shinya Yamanaka
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra rằng các tế bào trưởng thành có thể được tái lập trình để trở thành tế bào gốc vạn năng" | [9] | 2011 | Ralph M. Steinman
| "được trao giải thưởng cho công trình về tế bào gai và vai trò của nó trong miễn dịch thích ứng" | [10] | Bruce A. Beutler
Jules A. Hoffmann
| "được trao giải thường vì những nghiên cứu về sự hoạt hóa miễn dịch bẩm sinh" | 2010 | Robert Edwards
| "được trao giải thưởng vì khai phá phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)" | [11] | Thập niên 2000 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
2009 | Elizabeth H. Blackburn
Carol W. Greider
Jack W. Szostak
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra đoạn telomere của nhiễm sắc thể và cơ chế bảo vệ nhiễm sắc thể của enzym telomerase" | [12] | 2008 | Harald zur Hausen
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra Virus papilloma ở người (HPV), tác nhân gây ra bệnh ung thư cổ tử cung" | [13] | Françoise Barré-Sinoussi
Luc Montagnier
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra virus HIV" | 2007 | Mario R. Capecchi
Sir Martin Evans
Oliver Smithies
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra kỹ thuật định hướng gene (gene targeting) gây biến đổi gene ở chuột bằng cách sử dụng các tế bào nguồn tạo phôi (ES cells)" | [14] | 2006 | Andrew Fire
Craig Mello
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra kỹ thuật can thiệp RNA (RNA Interference) để khoá hoạt động của gene ở mức độ RNA thông tin" | [15] | 2005 | Barry Marshall
J. Robin Warren
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra vi khuẩn Helicobacter pylori và vai trò của chúng trong bệnh viêm dạ dày và loét dạ dày." | [16] | 2004 | Richard Axel
Linda B. Buck
| "được trao giải thưởng vì các công trình nghiên cứu của hộ về các thụ thể mùi và tổ chức của hệ thống khứu giác." | [17] | 2003 | Paul Lauterbur
Sir Peter Mansfield
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về kỹ thuật hình ảnh cộng hưởng từ (MRI)" | [18] | 2002 | Sydney Brenner
H. Robert Horvitz
John E. Sulston
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về sự điều hòa di truyền trong sự phát triển tạng và sự chết của tế bào theo lập trình." | [19] | 2001 | Leland H. Hartwell
Tim Hunt
Sir Paul Nurse
| "được trao giải thưởng vì đã tìm ra các phân tử có vai trò then chốt kiểm soát chu kỳ tế bào." | [20] | 2000 | Arvid Carlsson
Paul Greengard
Eric Kandel
| "được trao giải thưởng vì những nghiên cứu ủa họ về cơ chế truyền thông tin trong hệ thần kinh" | [21] | Thập niên 1990 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1999 | Günter Blobel
| "được trao giải thưởng vì phát hiện ra protein mang những tín hiệu thiết yếu điều khiển sự chuyển vận và định vị của chúng trong tế bào." | [22] | 1998 | Robert F. Furchgott
Louis Ignarro
Ferid Murad
| "được trao giải thưởng vì phát hiện ra oxít nitric như một phân tử tín hiệu trong hệ tim mạch." | [23] | 1997 | Stanley B. Prusiner
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện những hạt protein có tính chất lây truyền, gọi là prion, một tác nhân gây truyền nhiễm mới trong sinh học." | [24] | 1996 | Peter C. Doherty
Rolf M. Zinkernagel
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra sự chuyên biệt hóa trong hệ miễn dịch của tế bào (cách thức hệ miễn dịch nhận dạng các tế bào nhiễm bệnh)." | [25] | 1995 | Edward B. Lewis
Christiane Nüsslein-Volhard
Eric F. Wieschaus
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ liên quan đến cách thức gen kiểm soát sự phát triển của bào thai trong giai đoạn đầu." | [26] | 1994 | Alfred G. Gilman
Martin Rodbell
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra Protein G và vai trò của chúng trong sự truyền tín hiệu ở tế bào." | [27] | 1993 | Richard J. Roberts
Phillip A. Sharp
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về các gen tách "split genes". | [28] | 1992 | Edmond H. Fischer
Edwin G. Krebs
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về quá trình "phospho hoá protein nghịch đảo" như một cơ chế điều hòa sinh học." | [29] | 1991 | Erwin Neher
Bert Sakmann
Walloc
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về chức năng các kênh ion đơn lẻ trong tế bào." Walloc được nhận giải nhờ khám phá ra sự cần thiết của thực phẩm bổ sung dinh dưỡng (thực phẩm chức năng). | [30] | 1990 | Joseph E. Murray
E. Donnall Thomas
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về cách ghép cơ quan và tế bào trong sự điều trị bệnh ở người." | [31] | Thập niên 1980 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1989 | J. Michael Bishop
Harold E. Varmus
| "được trao giải thưởng vì tìm ra nguồn gốc tế bào của các Gen sinh ung retroviral." | [32] | 1988 | Sir James W. Black
Gertrude B. Elion
George H. Hitchings
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra các nguyên tắc quan trọng trong việc dùng thuốc điều trị bệnh." | [33] | 1987 | Tonegawa Susumu
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra các nguyên tắc về di truyền học giúp cơ thể có sự đa dạng hóa trong sự sản sinh ra các kháng thể." | [34] | 1986 | Stanley Cohen
Rita Levi-Montalcini
| "được trao giải thưởng vì đã tìm ra các nhân tố trăng trưởng." | [35] | 1985 | Michael Stuart Brown
Joseph L. Goldstein
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự điều hòa quá trình chuyển hóa cholesterol." | [36] | 1984 | Niels Kaj Jerne
Georges J. F. Köhler
César Milstein
| "được trao giải thưởng vì đã tìm ra những lý thuyết liên quan đến sự chuyên biệt hóa trong sự phát triển và sự kiểm soát hệ miễn dịch, đồng thời cũng khám phá ra cách thức sản xuất các kháng thể đơn dòng (monclonal antibody)." | [37] | 1983 | Barbara McClintock
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra các yếu tố có khả năng di động (transposon)." | [38] | 1982 | Sune Bergström
Bengt I. Samuelsson
Sir John Robert Vane
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến Prostaglandin và các chất sinh học hoạt động có liên quan." | [39] | 1981 | Roger W. Sperry
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự chuyên biệt hóa chức năng của các bán cầu não." | [40] | David H. Hubel
Torsten Wiesel
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự phân tích thông tin tại hệ thống thị giác." | 1980 | Baruj Benacerraf
Jean Dausset
George Davis Snell
| "được trao giải thưởng cho những khám phá về các cấu trúc xác định di truyền trên bề mặt tế bào có tác dụng điều chỉnh các phản ứng miễn dịch." | [41] | Thập niên 1970 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1979 | Allan McLeod Cormack
Godfrey Hounsfield
| "được trao giải thưởng vì đã triển khai kỹ thuật X-quang cát lớp có sự hỗ trợ của máy tính." | [42] | 1978 | Werner Arber
Daniel Nathans
Hamilton O. Smith
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra các enzym giới hạn và các cách áp dụng chúng để giải quyết các vấn đề trong di truyền học phân tử." | [43] | 1977 | Roger Guillemin
Andrew Schally
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự sản xuất các hormone peptide ở não." | [44] | Rosalyn Sussman Yalow
| "được trao giải thưởng vì đã triển khai thành công phương pháp miễn dịch dùng đánh dấu phóng xạ (Radioimmunoassay-RIA) đối với các hormone peptide." | 1976 | Baruch Samuel Blumberg
Daniel Carleton Gajdusek
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến những cơ chế mới về nguồn gốc và sự lây lan của các bệnh nhiễm trùng." | [45] | 1975 | David Baltimore
Renato Dulbecco
Howard Martin Temin
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự tương tác giữa các virus khối u (tumor virus) và vật liệu di truyền của tế bào." | [46] | 1974 | Albert Claude
Christian de Duve
George Emil Palade
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến tổ chức cấu trúc và chức nǎng của tế bào." | [47] | 1973 | Karl von Frisch
Konrad Lorenz
Nikolaas Tinbergen
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến tổ chức và suy luận các mô hình hành vi cá nhân và xã hội." | [48] | 1972 | Gerald Edelman
Rodney Robert Porter
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cấu trúc hóa học của các kháng thể." | [49] | 1971 | Earl Wilbur Sutherland, Jr.
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế hoạt động của các hormon." | [50] | 1970 | Sir Bernard Katz
Ulf von Euler
Julius Axelrod
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến các chất dẫn truyền dịch thể ở đầu mút dây thần kinh cùng các cơ chế lưu trữ, giải phóng và bất hoạt chúng." | [51] | Thập niên 1960 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1969 | Max Delbrück
Alfred Hershey
Salvador Luria
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế sao nhân và cấu trúc gen của các virus." | [52] | 1968 | Robert W. Holley
Har Gobind Khorana
Marshall Warren Nirenberg
| "được trao giải thưởng vì sự diễn giải của họ về mã di truyền và chức nǎng của nó trong việc tổng hợp protein." | [53] | 1967 | Ragnar Granit
Haldan Keffer Hartline
George Wald
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến những quá trình hoá học và sinh lý học cơ bản của thị giác trong mắt." | [54] | 1966 | Francis Peyton Rous
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của ông về các virus gây ra các khối u." | [55] | Charles Brenton Huggins
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng hormon." | 1965 | François Jacob
André Lwoff
Jacques Monod
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến các enzym điều khiển di truyền và sự tổng hợp virus." | [56] | 1964 | Konrad Bloch
Feodor Lynen
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế điều hòa và chuyển hoá cholesterol cùng các axít béo." | [57] | 1963 | Sir John Carew Eccles
Alan Lloyd Hodgkin
Andrew Huxley
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến cơ chế các ion tham gia vào sự kích thích và sự ức chế những tiểu phân trung tâm và ngoại vi của màng tế bào thần kinh." | [58] | 1962 | Francis Crick
James Watson
Maurice Wilkins
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ liên quan đến cấu trúc phân tử của các axít nucleic và ý nghĩa của chúng đối với sự truyền thông tin trong chất liệu sống." | [59] | 1961 | Georg von Békésy
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của ông về cơ chế vật lý của sự kích thích trong ốc tai." | [60] | 1960 | Sir Frank Macfarlane Burnet
Peter Medawar
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra sự dung nạp miễn dịch đạt được." | [61] | Thập niên 1950 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1959 | Severo Ochoa
Arthur Kornberg
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra cơ chế tổng hợp sinh học của axít ribonucleic và axít deoxyribonucleic" | [62] | 1958 | George Wells Beadle
Edward Lawrie Tatum
| "được trao giải thưởng vì khám phá của họ đã cho thấy gen hoạt động nhờ những hiện tượng hóa học xác định." | [63] | Joshua Lederberg
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến sự tái tổ hợp di truyền và sự tổ chức các chết liệu di truyền của vi khuẩn." | 1957 | Daniel Bovet
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của ông về những hợp chất tổng hợp ức chế hoạt động của một số chất trong cơ thể, đặc biệt là tác dụng của chúng trên hệ tim mạch và cơ xương." | [64] | 1956 | André Frédéric Cournand
Werner Forssmann
Dickinson W. Richards
| "được trao giải thưởng cho những khám phá của họ liên quan đến sự thông tim và những thay đổi bệnh lý trong hệ tuần hoàn." | [65] | 1955 | Hugo Theorell
| "được trao giải thưởng cho các khám phá liên quan đến bản chất và cách thức hoạt động của các enzym oxi hóa." | [66] | 1954 | John Franklin Enders
Frederick Chapman Robbins
Thomas Huckle Weller
| "được trao giải thưởng vì khám phá của họ về khả nǎng nuôi cấy virus bệnh viêm tủy xám trên nhiều loại mô khác nhau." | [67] | 1953 | Hans Adolf Krebs
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra chu trình axít citric (chu trình Krebs)." | [68] | Fritz Albert Lipmann
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra co-enzym A và tầm quan trọng của nó trong chuyển hóa trung gian." | 1952 | Selman Waksman
| "được trao giải thưởng vì đã tìm ra streptomycin, kháng sinh đầu tiên có tác dụng chống bệnh lao." | [69] | 1951 | Max Theiler
| "được trao giải thưởng vì những khám phá về bệnh sốt vàng và cách chống lại căn bệnh này." | [70] | 1950 | Philip Showalter Hench
Edward Calvin Kendall
Tadeus Reichstein
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ liên quan đến các hormon của vỏ thượng thận, cấu trúc và tác dụng sinh học của chúng." | [71] | Thập niên 1940 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1949 | Walter Rudolf Hess
| "được trao giải thưởng vì những khám phá về tổ chức chức năng của não trung gian là vùng điều phối hoạt động của các cơ quan nội tạng." | [72] | António Egas Moniz
| "được trao giải thưởng vì những khám phá về giá trị của thủ thuật mở thùy não (cắt thuỳ trước trán) trong việc điều trị một số chứng bệnh loạn thần." | 1948 | Paul Hermann Müller
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra tính hiệu quả cao của DDT khi dùng làm độc chất tiếp xúc chống một số loài chân đốt." | [73] | 1947 | Carl Ferdinand Cori
Gerty Cori
| "được trao giải thưởng vì những khám phá về quá trình biến đổi glycogen dưới tác dụng của chất xúc tác." | [74] | Bernardo Houssay
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra vai trò của các hormon của thùy yên trước trong sự chuyển hóa của đường." | 1946 | Hermann Joseph Muller
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra cách tạo các đột biến bằng phương pháp chiếu xạ." | [75] | 1945 | Sir Alexander Fleming
Ernst Boris Chain
Sir Howard Walter Florey
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra penicillin và những tác dụng chữa trị của nó đối với nhiều bệnh nhiễm trùng." | [76] | 1944 | Joseph Erlanger
Herbert Spencer Gasser
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của họ về những chức năng biệt hóa cao của các sợi thần kinh đơn." | [77] | 1943 | Henrik Dam
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra vitamin K." | [78] | Edward Adelbert Doisy
| "được trao giải thưởng vì đã tìm ra bản chất hóa học của vitamin K." | 1942 | [Không trao giải] | 1941 | [Không trao giải] | 1940 | [Không trao giải] | Thập niên 1930 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1939 | Gerhard Domagk
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra những tác dụng kháng khuẩn của prontosil." | [79] | 1938 | Corneille Heymans
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra vai trò của xoang và các cơ chế động mạch trong việc điều hòa hô hấp." | [80] | 1937 | Albert Szent-Györgyi
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến các quá trình đốt cháy sinh học, đặc biệt sự đề cập đến vitamin C và sự xúc tác của axít fumaric." | [81] | 1936 | Sir Henry Hallett Dale
Otto Loewi
| "được trao giải thưởng vì những phát hiện liên quan đến sự dẫn truyền hóa học của các xung thần kinh." | [82] | 1935 | Hans Spemann
| "được trao giải thưởng vì khám phá ra tác động của sự tổ chức sự phát triển của phôi." | [83] | 1934 | George Hoyt Whipple
George Richards Minot
William Parry Murphy
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến một số liệu pháp điều trị gan giúp chữa chứng thiếu máu." | [84] | 1933 | Thomas Hunt Morgan
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến vai trò của các nhiễm sắc thể trong di truyền." | [85] | 1932 | Sir Charles Scott Sherrington
Edgar Douglas Adrian
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến chức năng của các neuron." | [86] | 1931 | Otto Heinrich Warburg
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra nguồn gốc cũng như cơ chế tác động của các enzyme hô hấp (cytochrome)." | [87] | 1930 | Karl Landsteiner
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra các nhóm máu ở người." | [88] | Thập niên 1920 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1929 | Christiaan Eijkman
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra vitamin chống viêm dây thần kinh." | [89] | Sir Frederick Gowland Hopkins
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra các vitamin kích thích sự tăng trưởng." | 1928 | Charles Jules Henri Nicolle
| "được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của ông về bệnh sốt chấy rận." | [90] | 1927 | Julius Wagner-Jauregg
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện những giá trị của sự nhiễm truyền ký sinh trùng sốt rét trong việc chữa trị chứng liệt." | [91] | 1926 | Johannes Andreas Grib Fibiger
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra loài giun tròn Spiroptera carcinoma." | [92] | 1925 | [Không trao giải] | 1924 | Willem Einthoven
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra cơ chế hoạt động của điện tâm đồ." | [93] | 1923 | Frederick Banting
John James Richard Macleod
| "được trao giải thưởng vì đã phát hiện ra insulin." | [94] | 1922 | Archibald Vivian Hill
| "được trao giải thưởng vì những khám phá liên quan đến việc sản sinh ra nhiệt trong mô cơ." | [95] | Otto Fritz Meyerhof
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra mối liên quan giữa sự tiêu thụ oxygen và sự chuyển hóa của axít lactic trong mô cơ." | 1921 | [Không trao giải] | 1920 | August Krogh
| "được trao giải thưởng vì đã khám phá ra cơ chế điều hòa vận động mao mạch." | [96] | Thập niên 1910 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1919 | Jules Bordet
| "được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của ông liên quan đến hệ miễn dịch." | [97] | 1918 | [Không trao giải] | 1917 | [Không trao giải] | 1916 | [Không trao giải] | 1915 | [Không trao giải] | 1914 | Robert Bárány
| "được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của ông về sinh lý học và bệnh học của hệ tiền đình." | [98] | 1913 | Charles Robert Richet
| "được trao giải thưởng vì những nghiên cứu của ông về sự phản vệ." | [99] | 1912 | Alexis Carrel
| "được trao giải thưởng vì những nghiên cứu của ông về cách khâu hệ mạch, và cách cấy ghép mạch máu và các cơ quan" | [100] | 1911 | Allvar Gullstrand
| "được trao giải thưởng vì những nghiên cứu của ông về khúc xạ học của mắt" | [101] | 1910 | Albrecht Kossel
| "được trao giải thưởng cống hiến của ông giúp tăng kiến thức của chúng ta về các tính chất hóa học của tế bào, nhờ các công trình liên quan đến các protein và axít nucleic." | [102] | Thập niên 1900 | | Năm | Tên | Công trình | Chú thích |
|---|
1909 | Emil Theodor Kocher
| "được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của ông về sinh lý học, bệnh học và giải phẫu học của tuyến giáp." | [103] | 1908 | Ilya Ilyich Mechnikov
Paul Ehrlich
| "được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của họ về hệ miễn dịch." | [104] | 1907 | Charles Louis Alphonse Laveran
| "được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của ông về vai trò của những ký sinh trùng đơn bào trong việc gây bệnh." | [105] | 1906 | Camillo Golgi
Santiago Ramón y Cajal
| "được trao giải thưởng vì những công trình nghiên cứu của họ về cấu trúc hệ thần kinh" | [106] | 1905 | Robert Koch
| "được trao giải thưởng vì những khám phá và công trình nghiên cứu của ông về bệnh lao" | [107] | 1904 | Ivan Pavlov
| "được trao giải thưởng vì những nghiên cứu của ông về sinh lý của hệ tiêu hóa, nhờ đó các kiến thức cốt yếu về vần đề đã được thay đổi và mở rộng" | [108] | 1903 | Niels Ryberg Finsen
| "được trao giải thưởng vì những nghiên cứu của ông về phương pháp trị liệu, đặc biệt là bệnh lao da (lupus vulgaris), bằng bức xạ ánh sáng tập trung, từ đã mở ra một hướng mới trong y khoa" | [109] | 1902 | Sir Ronald Ross
| "được trao giải thưởng vì những nghiên cứu của ông về bệnh sốt rét, ông đã tìm ra cách thức các ký sinh trùng thâm nhập và tấn công vào cơ thể, từ đó đặt nền móng cho việc nghiên cứu và cách thức phòng chống bệnh này" | [110] | 1901 | Emil Adolf von Behring
| "được trao giải thưởng vì những khám phá của ông về các chất huyết thanh, đặc biệt là cách sử dụng chúng để chữa bệnh bạch hầu" | |