Thuốc mới chữa được HIV và sốt rét
Căn bệnh thế kỷ HIV/AIDS và sốt rét có chung một số điểm tương đồng về mặt phân tử. Vì thế, có thể sắp xuất hiện loại “siêu thuốc” chữa được cả hai bệnh này. Đó là thuốc có thể ức chế phân giải, dược phẩm mà các nhà khoa học tạo ra để tiêu diệt HIV bằng cách ngăn chặn quá trình tạo protein từ virus này. “Các chất ức chế phân giải đang trong quá trình thử nghiệm lâm sàng và hiện là loại thuốc trị HIV triển vọng nhất”, Photini Sinnis, giám đốc Phòng thí nghiệm ký sinh trùng, thuộc Trung tâm y học NYU Langone (Mỹ) cho biết. “Những chất này thay đổi hoàn toàn cách điều trị HIV trong những năm gần đây. Những người uống loại thuốc này không mất mạng vì AIDS nữa”.
Chất ức chế phân giải là các enzyme có thể cắt các protein thành các hình thù sao cho chúng hoạt động tích cực. Chất ức chế phân giải HIV ngăn chặn virus HIV trên đường đi của chúng bằng cách ngăn chặn một trong những enzyme phân giải của nó thực hiện chức năng của mình. Khi không có protein phân giải, các protein của HIV không được phân chia và kích hoạt, khiến các phần tử của virus HIV không thể tập hợp lại để tạo thành các phần tử mới. Cơ chế tự nhiên của cơ thể là tiêu diệt các phần tử HIV để ngăn chặn virus tái tạo nhằm giữ số lượng tế bào HIV ở mức cơ thể có thể xử lý được.
Trong nhiều năm qua, nhiều nhóm nghiên cứu phát hiện ra tác dụng phụ tích cực của chất ức chế phân giải HIV. “Chúng tôi thấy rằng những enzyme này có cả tính chất chống sốt rét”, Sinnis nói. Các nhà nghiên cứu tin các chất ức chế phân giải HIV cũng có thể chấm dứt sự hiện diện của protein phân giải trong ký sinh trùng sốt rét, giống như cơ chế ức chế HIV. Nhóm nghiên cứu của Sinnis thấy thuốc chống virus HIV ngăn chặn thành công ký sinh trùng sốt rét tái tạo ở chuột. Thử nghiệm này chưa được tiến hành ở người, nhưng kết quả thử nghiệm ban đầu ở chuột thúc đẩy các nhà nghiên cứu sử dụng các chất ức chế phân giải trong điều trị HIV cho các bệnh nhân ở châu Phi. “Ở châu Phi, nơi HIV và sốt rét chồng chéo lên nhau, thuốc HIV chúng tôi sử dụng phải là các chất ức chế phân giải, rồi mới có thêm tác dụng ngăn chặn lây lan sốt rét”, Sinnis nói.
Hiện tại, các chất ức chế phân giải mới được dùng để chữa bệnh sốt rét cho người mang HIV. Thuốc này độc hơn nhiều loại thuốc chữa sốt rét, nên không được phát cho những người chỉ bị sốt rét. Nhưng nếu các chất ức chế phân giải có thể được điều chỉnh để giảm độc tính thì sẽ được dùng cho bệnh nhân sốt rét. Đến nay, các nhà khoa học đã giới hạn loại enzyme phân giải có thể chứa chất phân giải mục tiêu, nhưng họ vẫn chưa tìm ra loại enzyme cụ thể. Vì vòng đời và chuỗi gene phức tạp của ký sinh trùng sốt rét, nên “rất khó để thể hiện các protein của ký sinh trùng sốt rét (trong đó có enzyme phân giải) trong phòng thí nghiệm. Điều đó khiến quá trình thử nghiệm các chất ức chế enzyme phân giải của ký sinh trùng sốt rét tiến triển chậm”, Sinnis giải thích.
Trong bài đăng trên tạp chí của Hội sinh học thử nghiệm Mỹ, Colin Berry và đồng nghiệp ở ĐH Cardiff (Anh) cho biết họ đã tìm ra enzyme phân giải ẩn trong chất ức chế phân giải HIV ở ký sinh trùng Leishmania - họ hàng của ký sinh trùng sốt rét. Dù chất phân giải Dd1 này chưa được phát hiện ở ký sinh trùng sốt rét, nhóm của Berry tin rằng đây là chất phân giải mà các nhà khoa học bấy lâu nay muốn tìm thấy. “Kết quả của chúng tôi cho thấy các protein Dd1 là mục tiêu của chất ức chế phân giải HIV, và chỉ ra rằng Leishmania Ddi1 rất có thể là mục tiêu của những loại thuốc này và là mục tiêu tiềm năng của liệu pháp kháng ký sinh trùng”, Berry và cộng sự cho biết. “Bài báo này mở ra hy vọng tìm thấy mục tiêu ở ký sinh trùng sốt rét”, Sinnis nhận xét. Và khi nó được tìm ra, thuốc chống HIV có thể được dùng để chống lại căn bệnh sốt rét. HIV, loại virus gây ra căn bệnh thế kỷ AIDS, cướp đi sinh mạng của 2 triệu người trên thế giới mỗi năm. Sốt rét, ký sinh trùng lây lan qua muỗi, lây bệnh cho 225 triệu người và giết chết 781.000 người mỗi năm.
Có cần ngưng sử dụngkháng sinh Augmentin dùng cho trẻ em?
Trước thông tin Hồng Kông và Đài Loan yêu cầu thu hồi kháng sinh augmentin dùng cho trẻ em: Có cần ngưng sử dụng? Là người tiêu dùng, chị Thanh Hương ở Nghĩa Tân – Cầu Giấy – Hà Nội cho biết, chị rất hoang mang khi đọc thông tin về việc thuốc augmentin dùng cho trẻ em bị thu hồi tại Hồng Kông và Đài Loan vì cách đây không lâu khi con trai bị viêm phế quản, chị đã cho con uống một đợt điều trị 5 ngày liền theo chỉ định của bác sĩ. Trao đổi với TS. Trần Nhân Thắng – Trưởng đơn vị thông tin thuốc – BV Bạch Mai về vấn đề này được biết, augmentin là kháng sinh phổ biến được chỉ định dùng khá nhiều, tuy nhiên đây là loại kháng sinh được bán theo đơn của bác sĩ. Cũng theo TS. Thắng, có thể qua quá trình giám sát, hậu kiểm, cơ quan chức năng của Hồng Kông, Đài Loan đã phát hiện được thông tin trên, tuy nhiên người tiêu dùng cũng cần thận trọng nghe ngóng thông tin liên quan đến tính an toàn của thuốc này.
Dưới góc độ là cơ quan theo dõi phản ứng có hại và thông tin thuốc, PGS.TS. Nguyễn Đăng Hòa cho hay, việc một số cơ quan thông tin đại chúng đưa tin về việc thuốc augmentin bị thu hồi nhưng không nói rõ là lô nào, ngày sản xuất nào nên đã gây ra sự hoang mang cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, hai loại chất phụ gia làm dẻo là DIDP và DINP được phép sử dụng trong đồ nhựa, lớp phủ nhựa bên ngoài để tăng độ dẻo. Đối chiếu với gói thuốc bột augmentin thì hai chất phụ gia làm dẻo này có trong bao bì chứ không nằm trực tiếp ở thuốc. Hơn nữa, thuốc này dùng theo đường uống nên trong vòng 72 giờ cơ thể sẽ thải loại hết những thành phần của thuốc ra khỏi cơ thể. PGS.TS. Nguyễn Đăng Hòa cũng cho rằng, khuyến cáo của Cơ quan y tế Hồng Kông cảnh báo bệnh nhân hiện đang dùng loại thuốc này, nếu có những triệu chứng bất thường nên tham khảo ý kiến bác sĩ càng sớm càng tốt và không nên dừng dùng loại thuốc này đột ngột, do đó nếu đang sử dụng để điều trị, người dân không nên quá hoang mang, ngừng sử dụng thuốc sẽ gây ảnh hưởng đến quá trình điều trị.
Pháp ngừng sử dụng thuốc trị tiểu đường chứa Pioglitazone
Mới đây, Cơ quan Quản lý Dược Pháp đã quyết định ngừng sử dụng các thuốc có chứa Pioglitazon điều trị tiểu đường tuýp 2 do tăng nguy cơ gây ung thư bàng quang. Thuốc chứa hoạt chất này có bán tại Việt Nam. Hai loại thuốc chứa Pioglitazone bị Pháp yêu cầu ngừng sử dụng là: Actos và Competact.
Trong khi đó, Cơ quan Quản lý Dược châu Âu và Cơ quan quản lý Thuốc và Thực phẩm Mỹ (FDA) đang tiến hành xem xét, đánh giá lại tính an toàn của thuốc có chứa Pioglitazone này. Trong lúc chưa có kết luận cuối cùng, FDA khuyến cáo các thầy thuốc không kê đơn sử dụng thuốc có chứa Pioglitazone ở bệnh nhân ung thư bàng quang tiến triển. Với bệnh nhân có tiền sử ung thư bàng quang thì cần thận trọng khi sử dụng, cân nhắc giữa lợi ích của việc kiểm soát đường huyết so với nguy cơ chưa biết về tái xuất hiện ung thư khi sử dụng Pioglitazone. Đồng thời cơ quan này cũng khuyến cáo, bệnh nhân thông báo khi có bất kỳ dấu hiệu nào như: tiểu ra máu, đau khi đi tiểu, đau lưng, đau bụng hoặc các triệu chứng có thể do ung thư bàng quang gây ra.
Thuốc có chứa Pioglitazone đã được cấp số đăng ký lưu hành tại Việt Nam. Vì thế, để đảm bảo an toàn cho người sử dụng, Cục Quản lý Dược yêu cầu Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc cung cấp các thông tin liên quan đến tính an toàn của Pioglitazone. Các cơ sở khám, chữa bệnh tăng cường theo dõi, phát hiện và xử trí nếu xảy ra phản ứng có hại của các thuốc chứa Pioglitazone. Trước đó vào cuối năm ngoái, Cục Quản lý Dược cũng đã ngừng cấp số đăng ký mới cho thuốc điều trị tiểu đường Avandia do công ty GlaxoSmithKline sản xuất và các thuốc có cùng hoạt chất do lo ngại làm tăng nguy cơ đau tim và đột quỵ khi dùng lâu dài.
Phát hiện mới về nhóm thiazid lợi niệu trong điều trị tăng huyết áp
Có thể nói nhóm thiazide là thuốc lợi niệu hàng đầu dùng trong điều trị tăng huyết áp. Với nhiều ưu điểm đã được chứngminh và qua thực tiễn sử dụng, vừa tăng thải trừ muối, vừa có tác dụng giãn mạch và tăng tác dụng của các thuốc chống tăng huyết áp khác. Có rất nhiều thông tin mới và thú vị về lợi niệu thiazide trong điều trị tăng huyết áp, từ các kết quả thử nghiệm lâm sàng mà lợi niệu được sử dụng như một liệu pháp chuẩn. Những nghiên cứu này khẳng định rằng lợi niệu ít nhất cũng có tác dụng tương đương với các nhóm thuốc mới (thuốc ức chế men chuyển ACE hoặc ức chế kênh canxi) trong việc phòng ngừa các biến chứng tim mạch.
Phát hiện thú vị nhất trong lĩnh vực này là về dược lý di truyền. Các nghiên cứu gần đây phát hiện ra rằng những người mang gen biến thể α-adducin Gly460Trp có thể tăng giữ natri và THA nhạy cảm với muối. Vì lợi liệu tăng đào thải muối nên vai trò của lợi niệu có thể tốt hơn với bệnh nhân tăng huyết áp mang biến thể gen α-adducin. Một nghiên cứu bệnh chứng dựa trên quần thể so sánh kiểu gen giữa các bệnh nhân tăng huyết áp từng có biến chứng tim hoặc đột qụy trước đó với các bệnh nhân chưa bị biến chứng tim mạch. Lợi niệu không những ngăn ngừa được đột qụy và các biến chứng tim mạch không kể kiểu gen, nhưng người ta thấy hiệu quả của lợi niệu trong ngăn ngừa những biến chứng này cao hơn nhiều ở người có mang biến thể α-adducin.
Trong nghiên cứu Allhat , thử nghiệm lớn nhất về tăng huyết áp từng được thực hiện, lợi niệu chlorthalidone (nhóm thiazide) được sử dụng như phác đồ chuẩn để so sánh với amlodipine, lisinopril hoặc doxazosin. Doxazosin sau đó đã bị ngừng lại vì nguy cơ tim mạch cao hơn ở những bệnh nhân điều trị thuốc này. Với 33.357 người tham gia được chia làm 3 nhóm và theo dõi trong 4,9 năm, không thấy có sự khác biệt giữa các nhóm về kết quả, cả biến chứng tim mạch và các nguyên nhân khác. Tuy nhiên, nhóm dùng amlodipine có tỷ lệ suy tim cao hơn so với nhóm dùng lợi niệu chlorthalidone. Để đạt được tỷ lệ 66% được kiểm soát huyết áp vào cuối của nghiên cứu, 63% bệnh nhân cần dùng từ 2 loại thuốc trở lên.
Kết quả của thử nghiệm Allhat là khá ngạc nhiên, nghiên cứu này cho thấy người dùng lisinorpil có tỷ lệ đột qụy cao hơn 15% so với nhóm dùng chlorthalidone. Kết quả này cũng tương tự một nghiên cứu khác, nhóm điều trị bằng captopril có tỷ lệ đột quỵ cao hơn so với nhóm điều trị chuẩn bằng lợi niệu và/hoặc ức chế beta giao cảm. Nhưng đáng chú ý nhất là phát hiện về 19% tỷ lệ suy tim cao hơn ở nhóm dùng thuốc ức chế ACE so với nhóm dùng lợi niệu. Kết quả này cũng phù hợp với một số kết quả nghiên cứu khác về ưu thế của lợi niệu. Phát hiện cũng cho thấy dùng chlorthalidon có gây tăng lipid máu một cách có ý nghĩa thống kê, dù nhẹ, nhưng lợi ích của thuốc lợi niệu vẫn được đánh giá cao hơn. Ưu thế của Chlorthalidon so với Lisinorpil được thấy trên bệnh nhân thuộc mọi lứa tuổi, giới tính, có hay không kèm theo bệnh đái tháo đường.
Nghiên cứu này cũng dẫn đến kết luận chung là cả 3 thuốc đều làm giảm các nguy cơ cho người bệnh tăng huyết áp và để đạt mục tiêu kiểm soát huyết áp, thường phải dùng 2-3 loại thuốc, trong đó, một thuốc nên là lợi niệu.
Tai biến do ngưng dùng thuốc
Nếu đột ngột ngưng thuốc, có thể sẽ có phản ứng bằng tác dụng phụ, gọi là “hội chứng cai thuốc”, bao gồm mất ngủ, vật vã, đau nhức, ói mửa, toát mồ hôi, nước mắt chảy ràn rụa, tiêu chảy liên tục... Bất cứ thuốc nào, kể cả vitamin, khi sử dụng đều có thể gây tác dụng phụ bên cạnh tác dụng chính là điều trị hoặc phòng bệnh. Tuy nhiên, thực tế dùng thuốc lại có hiện tượng ngược đời: thay vì do dùng thuốc thì chính sự ngưng dùng, đặc biệt ngưng đột ngột lại gây ra tác dụng phụ, làm khốn khổ người bệnh!
Uống cũng khổ, ngưng cũng khổ
Tác dụng phụ của thuốc nói chung được định nghĩa là: “tác dụng không mong muốn, gây khó chịu, thậm chí độc hại; xảy ra khi dùng một thứ thuốc ở liều thông thường để chữa bệnh, phòng bệnh và chẩn đoán bệnh; hoặc để thay đổi một chức năng sinh lý ở người”. Tác dụng phụ thường xuất hiện khi đang dùng thuốc, có thể ở lần dùng đầu tiên (như uống thuốc kháng histamin trị dị ứng thuộc thế hệ thứ nhất sẽ gây tác dụng phụ buồn ngủ); có thể do dùng lâu ngày (như dùng thuốc phenylbutazon lâu ngày có thể bị tác dụng phụ mất bạch cầu hạt).
Đặc biệt có một tác dụng phụ không thuộc loại phổ biến có thể xảy ra, đó là tác dụng phụ do ngưng dùng thuốc. Tác dụng phụ này còn gọi là “tai biến do ngưng dùng thuốc” (nước ngoài viết tắt ADWE, xuất phát từ Adverse Drug Withdrawal Events), được định nghĩa là biến cố xảy ra với các triệu chứng rối loạn, do đang dùng một thứ thuốc nào đó mà lại đột ngột ngưng không dùng nữa.
Định nghĩa về tác dụng phụ do ngưng dùng thuốc như trên làm ta liên tưởng đến các thuốc gây nghiện, kể cả ma tuý, có thể kể: thuốc giảm đau có nguồn gốc thuốc phiện, gọi chung opioid (như morphin, pethidin, fentanyl), thuốc an thần gây ngủ nhóm benzodiazepin (như diazepam), thuốc giảm cân kích thích là các dẫn chất amphetamin… Các thuốc này khi đã quen dùng thời gian dài sẽ làm thay đổi chuyển hoá cơ bản của các tế bào thuộc hệ thần kinh trung ương và hệ thần kinh thực vật. Những tế bào này lệ thuộc vào thuốc, nghĩa là chúng hoạt động một cách bất thường theo tác dụng của thuốc. Nếu đột ngột ngưng thuốc, chúng sẽ phản ứng bằng tác dụng phụ, gọi là “hội chứng cai thuốc”, bao gồm mất ngủ, vật vã, đau nhức, ói mửa, toát mồ hôi, nước mắt chảy ràn rụa, tiêu chảy liên tục...
Thuốc nào có thể là thủ phạm?
Các loại thuốc gây tác dụng phụ do ngưng dùng thuốc thường gặp là các thuốc có tác dụng làm giảm triệu chứng bệnh. Nếu dùng liên tục, triệu chứng bệnh không xảy ra nhưng đột ngột ngưng, triệu chứng bệnh trỗi dậy, thậm chí còn trầm trọng hơn. Thí dụ như thuốc clonidin trị bệnh tăng huyết áp, hoặc thuốc chẹn bêta như propranolol, nếu đột ngột ngưng dùng sẽ làm huyết áp tăng vọt, rất nguy hiểm. Đối với thuốc chống trầm cảm loại ba vòng (như nortryptilin, clomipramin), đột ngột ngưng dùng sẽ làm trạng thái tâm thần người bệnh xấu đi, thậm chí có người còn tìm cách tự tử. Các thuốc trị động kinh (như carbamazepin) cũng thế, đột ngột ngưng dùng, bệnh nhân ngay lập tức sẽ lên cơn động kinh.
Để khắc phục những tác dụng phụ đó, có một biện pháp là dùng thuốc giảm liều từ từ trước khi ngưng hẳn, để giúp cơ thể thích ứng dần và không được đột ngột ngưng. Điển hình của giảm liều từ từ có thể kể là chỉ định ngưng từ từ sau khi dùng thuốc glucocorticoid trong thời gian dài (nhóm thuốc thường được gọi tắt corticoid, như prednisolon, dexamethason…), bởi dùng lâu glucocorticoid sẽ làm hoạt động tuyến vỏ thượng thận ức chế. Khi đó, giảm liều từ từ giúp tuyến nội tiết này thích nghi và trở lại hoạt động bình thường, nếu không bệnh nhân sẽ khốn khổ vì thiếu corticoid nội sinh do chính tuyến vỏ thượng thận tiết ra.
Để tránh các tai biến
Những điều trình bày trên đã cho thấy phần nào tác dụng phụ của thuốc rất đa dạng. Do đó, ngoài quan tâm tác dụng phụ xảy ra khi đang dùng thuốc (đặc biệt khi dùng thuốc kéo dài), người bệnh còn phải hết sức lưu tâm đến cả các rối loạn do ngưng dùng thuốc.
Muốn vậy, người sử dụng thuốc cần lưu ý: phải tuân thủ chỉ định của thầy thuốc về liều lượng và thời gian dùng thuốc. Không tự ý kéo dài thời gian dùng thuốc hoặc đột ngột ngưng dùng thuốc khi không có ý kiến của bác sĩ điều trị. Khi bác sĩ chỉ định giảm liều từ từ, phải theo đúng cách thức giảm liều đó, trước khi đi đến quyết định ngưng dùng hoàn toàn. Khi đang dùng và sau khi ngưng dùng, nếu xuất hiện những rối loạn, những phản ứng bất thường trong cơ thể, cần đến bác sĩ tái khám ngay để có những xử trí y khoa kịp thời.
Tỉnh táo trước thông tin cảnh báo
Khi đang dùng một thuốc nào điều trị bệnh và đọc được thông tin cảnh báo về thuốc đó thì không nên tự ý ngưng bỏ thuốc nửa chừng mà cần chờ ý kiến quyết định của bác sĩ điều trị. Như cách đây vài năm, có tin cơ quan quản lý thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) thông báo thuốc trị tâm thần phân liệt olanzapine (zyprexa) là loại thuốc gây tác dụng phụ nhiều nhất so với nhiều thuốc khác và đưa vào danh sách mười thuốc cần cảnh giác. Ở ta, một số bệnh nhân đang điều trị rất tốt với thuốc này, trước thông tin như thế, đã vội không dùng nữa và bệnh tái phát rất trầm trọng. Hiện olanzapine vẫn được tiếp tục lưu hành mà chẳng có việc gì.
Gần đây, có một công bố của cơ quan quản lý dược phẩm Pháp (AFSSAPS) về danh mục gồm 59 thuốc cần đặc biệt theo dõi đã làm nhiều bệnh nhân rất lo, đến độ tính chuyện bỏ dùng thuốc có trong danh sách đó. Đúng là có một thuốc nằm trong danh mục công bố sau đó bị cấm lưu hành (benfluorex) nhưng các thuốc còn lại đều đã được chứng minh mang đến lợi ích điều trị (thông qua cấp phép lưu hành) và chưa có quyết định pháp lý nào bắt buộc ngưng không cho tiếp tục lưu hành và ngưng sử dụng trong điều trị. Cơ quan AFSSAPS cũng có khuyến cáo, bệnh nhân không được ngưng sử dụng những thuốc có trong danh mục cần cảnh giác nêu trên trong bất cứ trường hợp nào, nếu không có ý kiến của bác sĩ điều trị.
WHO chưa khuyến cáo ngưng sử dụng vaccine Rotarix
Ngày 31-3, PGS-TS Nguyễn Trần Hiển, Viện trưởng Viện Vệ sinh Dịch tễ TƯ cho biết, đến nay, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) không có khuyến cáo liên quan đến việc ngưng sử dụng vaccine Rotarix. Đây là vắcxin phòng tiêu chảy do rotavirus, dành cho trẻ em từ 6 tuần tuổi đến dưới 6 tháng tuổi. Theo WHO, qua nghiên cứu về tính an toàn và hiệu quả tại 114 nước trên thế giới với hơn 90.000 đối tượng và giám sát hậu mãi với hơn 69 triệu liều Rotarix được phân phối toàn cầu không thấy có hậu quả do vắcxin gây ra. WHO khẳng định, vắcxin Rotarix vẫn an toàn dù có ADN của virút lợn PCV-1 trong vaccine này. Virút lợn PCV-1 được biết là không gây bệnh ở người và súc vật. Kháng nguyên lạ này đã có từ trong quá trình sản xuất trước cả khi đưa ra thử nghiệm lâm sàng và áp dụng.
PGS.TS Nguyễn Trần Hiển khuyến cáo, các bà mẹ đã cho con uống loại vắcxin dù cả liều hay nửa liều cũng không nên hoang mang vì vắcxin vẫn an toàn và có hiệu quả bảo vệ trẻ trên 80%. Cùng ngày, Cục Quản lý dược Việt Nam cho biết, đã có văn bản đề nghị Cục Y tế dự phòng và môi trường, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung Ương, Viện Kiểm định quốc gia vaccine và sinh phẩm y tế, Hội đồng Tư vấn sử dụng vắcxin và sinh phẩm quốc gia cho ý kiến về vaccine Rotarix để bảo đảm đủ vaccine có chất lượng cho người sử dụng.
Những loại trái cây tương kỵ với thuốc
Đối với nhiều người, uống thuốc với bất cứ nước gì có vẻ không quan trọng, thậm chí có người còn tìm đến với những loại nước có mùi vị thích hợp nhằm loại trừ cảm giác khó chịu khi dùng thuốc, trong đó có nước trái cây. Nhiều người rất thích dùng nước ép trái cây để uống thuốc vì có cảm giác dễ chịu do mùi vị trái cây đưa đến. Hoặc có khi vừa uống thuốc với nước xong lại vội vàng ăn thật nhiều trái cây để làm mất dư vị khó chịu của việc uống thuốc. Cả hai trường hợp nêu trên có thể gọi chung là uống thuốc với nước trái cây (vì việc ăn trái cây ngay sau uống thuốc, dịch trái cây cũng sẽ tác động trực tiếp vào thuốc ở dạ dày).
Nên biết rằng nhiều loại nước trái cây hiện nay đã được chứng minh là gây hại nếu uống chung với thuốc. Dùng nước cam, nước táo uống thuốc có thể làm chất sinh học ở ruột đảm nhận việc vận chuyển thuốc vào máu không hoạt động được. Nước cam, nước chanh có vị chua (acid hữu cơ) có thể làm cho kháng sinh như ampicillin, erythromycin, lincomycin bị hỏng do các kháng sinh này kém bền vững ở môi trường acid.
Nghiêm trọng nhất là nước bưởi chùm (grape- fruit) là loại bưởi dùng nhiều ở phương Tây cũng đã được chứng minh gây hại thuốc, vì thế cũng nên thận trọng với nước bưởi khi đang uống thuốc. Vì cả hai loại bưởi này đều chứa hoạt chất naringin và bergamotin (ở bưởi ta hai chất này có trong vỏ nhiều hơn). Khi uống chung với một số thuốc như statin trị rối loạn lipid huyết, thuốc atenolon trị tăng huyết áp... nước bưởi chùm sẽ làm tăng độc tính của thuốc do naringin có trong bưởi ức chế men chuyển hóa thuốc ở gan làm tăng nồng độ thuốc lên cao trong máu.
Vì sao nước bưởi làm hại thuốc?
Có khá nhiều thuốc tương tác với nước bưởi. Sự tương tác giữa bưởi và thuốc được khám phá tình cờ vào năm 1989. Các nhà khoa học đã phát hiện nếu dùng cùng lúc bưởi chùm và uống thuốc felodipin trị tăng huyết áp, nồng độ felodopin trong máu tăng gấp 3 lần so với mức bình thường. Chính nước bưởi chùm làm tăng nồng độ felodipin trong máu tức làm cho sự chuyển hóa thải trừ của felodipin bị chậm giống như dùng quá liều felodipin. Cơ chế này được giải thích như sau: Nhiều thuốc được chuyển hóa bằng enzym cytochom P-450 có ký hiệu CYP3A4 có ở gan và ruột. Bình thường, cơ thể có đủ enzym này để chuyển hóa các thuốc, trong đó có felodipin. Nếu uống đúng liều thuốc sẽ không xảy ra tai biến. Nhưng khi ăn hoặc uống bưởi chùm, nồng độ enzym này trong gan, ruột, đặc biệt là ở ruột bị chất naringin và bergamotin có trong nước bưởi làm cho enzym này giảm đi rất nhiều. Do đó sự chuyển hóa và thải trừ thuốc sẽ kém và chậm hơn so với bình thường, giống như dùng thuốc quá liều gây ngộ độc.
Vậy uống thuốc với nước nào là tốt nhất?
Nước đun sôi để nguội hoặc nước lọc hợp vệ sinh là loại nước tốt nhất dùng để uống thuốc. Uống thuốc với hai loại nước này với lượng nước vừa đủ sẽ giúp đưa viên thuốc từ miệng xuống nhanh đến dạ dày. Tại đây, thuốc tan rã và hòa tan tạo thành dung dịch thuốc, sau đó trôi xuống ruột là vị trí dược chất sẽ hấp thu vào máu cho tác dụng chữa bệnh.
 |
Uống thuốc với nước lọc là tốt nhất. |
Không được nuốt khan viên thuốc (đặc biệt là người cao tuổi do rối loạn tiểu tiện thường đi tiểu lắt nhắt nên ngại uống nước), vì có thể viên thuốc bị dính lại ở thực quản gây viêm loét thực quản. Một số thuốc còn đòi hỏi uống nhiều nước hơn như thuốc chứa dược chất sulfamid để thuốc được lọc bài tiết nhiều theo nước tiểu không gây đóng sỏi, hại thận. Có thể dùng nước đóng chai nhưng phải là nước tinh khiết chứ không nên dùng nước chứa các chất khoáng (còn gọi là nước suối) để uống thuốc, bởi vì chất khoáng như canxi, natri... có thể tương kỵ với thuốc.
4 loại dược phẩm mới được cơ quan FDA của Mỹ phê duyệt
Trong hai tháng 4 và 5 vừa qua, Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt cho phép sử dụng một số dược phẩm mới, trong đó có 4 sản phẩm dưới đây.
Thuốc Victrelis trị bệnh viêm gan C
Ngày 13/5, FDA đã đồng ý cho phép sử dụng loại dược phẩm mới có tên là victrelis (boceprevir) dùng để trị bệnh viêm gan C cho người lớn, phù hợp với nhóm người mắc bệnh về gan, hoặc đã qua điều trị các loại thuốc khác nhưng không mang lại hiệu quả. Việc phê duyệt victrelis của FDA được dựa vào hai nghiên cứu lâm sàng ở 1.500 người lớn mắc bệnh, trong số này 2/3 được dùng victrelis kết hợp với hai loại thuốc trị viêm gan tiêu chuẩn. Sau 24 tuần, nhóm dùng victrelis trong máu không còn virut viêm gan C. Victrelis là thuốc viên, uống 3 lần/ngày trong bữa ăn, có tác dụng ức chế protease, kìm chế chế virut, ngăn ngừa không cho nó phát triển. Phản ứng phụ của victrelis là mệt mỏi, số lượng tế bào hồng cầu giảm, buồn nôn, nhức đầu và giảm tính ngon miệng.
 |
Người bệnh lupus ban đỏ có thêm hy vọng từ thuốc mới. Ảnh: M.H |
Thuốc horizant
Horizant là loại dược phẩm mới điều trị hội chứng bất động chân cẳng (RLS), thuốc viên sử dụng ngày một lần. Việc phê duyệt horizant được dựa vào 2 nghiên cứu dài 12 tuần ở nhóm người lớn. Kết quả đã cải thiện tình trạng bệnh, giúp người mắc bệnh không còn bị tê đau và cảm thấy dễ hoạt động hơn. Tác dụng chính của horizant là hợp chất có tên gabapertin enacarbil, đây là chất đã từng được dùng trong thuốc trị bệnh động kinh. Dùng horizant kết hợp với luyện tập, duy trì cuộc sống vận động, giảm dùng chất kích thích sẽ có tác dụng tích cực. Phản ứng phụ của horizant thường thấy như buồn ngủ, chóng mặt, thiếu tập trung nên khi dùng thuốc hạn chế lái xe, điều khiển các phương tiện giao thông.
Vaccin ngừa bệnh zona cho nhóm người trên 50
Trong tương lai không xa, những người trên 50 tuổi sẽ được tiêm vaccin ngừa bệnh zona mới do Hãng Merck sản xuất có tên là zostavax. Thực ra vaccin này đã được phê duyệt dùng cho nhóm trên 60 tuổi nhưng nay lại được dùng cho nhóm người trẻ hơn, bởi dựa vào những nghiên cứu lâm sàng do chính Merck thực hiện cho thấy, zostavax có hiệu quả ngừa bệnh cho nhóm trên 50 cao tới trên 70%, nhất là những người khi còn trẻ đã mắc bệnh. Bệnh zona còn có tên là Shingles hay Herpes Zoster, thủ phạm do virut herpes gây bệnh thủy đậu có tên là Raricella Zoster gây ra. Ở những người mắc bệnh thủy đậu, khi khỏi, virut này không bị triệt tiêu mà vẫn lẩn khuất trong các gốc dây thần kinh và khi vào cuối đời sức khỏe kém nó lại bùng phát trở lại. Về cơ bản, zostavax giống như vaccin ngừa thủy đậu nhưng thường được dùng ở liều cao hơn, giá thành đắt hơn từ 10-20 lần so với vaccin cúm, khoảng 161.5 USD.
Thuốc trị bệnh lupus
Mới đây FDA còn chính thức phê duyệt cho phép lưu thông loại thuốc trị bệnh lupus mới có tên là Benlystar. Đây là lần đầu tiên một loại thuốc trị bệnh lupus mới được phê duyệt kể từ năm 1955, rất phù hợp cho những bệnh nhân lupus tự kháng thể dương tính và đang được điều trị bằng liệu pháp tiêu chuẩn, gồm corticostercid thuốc chống sốt rét, các tác nhân ức chế miễn dịch và các loại thuốc kháng viêm thuộc nhóm NSAIDs. Tác dụng của Benlystar là ức chế đột biến của các tế bào B này và có tác dụng tốt ở nhóm người mắc bệnh ở thể trung bình, giúp hạn chế tác hại của bệnh và giảm việc sử dụng steroid, hạn chế các phản ứng phụ do steroid gây ra và cuối cùng giúp người bệnh cải thiện chất lượng cuộc sống, đỡ đau và dễ chịu hơn.
Thêm một tác dụng của cà phê
Một nghiên cứu gần đây cho thấy, những người đàn ông chịu khó uống cà phê có thể giảm được nguy cơ bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Đây là thông báo mới nhất của một nhóm các nhà khoa học tại Đại học Y tế công cộng Harvard (Boston, Mỹ). Theo đó, các nhà khoa học nghiên cứu trên 48.000 người đàn ông tại Mỹ với công việc là theo dõi thói quen uống cà phê của họ và tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Đây là một nghiên cứu kéo dài 20 năm được khởi động từ năm 1986. Sau khi nghiên cứu và phân tích kết quả, nhóm các nhà khoa học phát hiện ra rằng, nếu uống cà phê đều đặn với 6 tách nhỏ một ngày thì có thể giảm được tới 30% nguy cơ mắc bệnh.
Khuyến cáo mới nhất về thuốc ức chế bơm proton
Loét dạ dày tá tràng có nguyên nhân và cơ chế bệnh sinh khá phức tạp, có sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó ảnh hưởng của dịch vị dạ dày mà trực tiếp là acid HCl ở dạ dày đóng vai trò quan trọng. Sự bài tiết HCl ở dạ dày là do tế bào viền đảm nhận, cơ chế tiết khá phức tạp và ở công đoạn cuối cùng phải có sự tham gia của enzym H+K+ ATPase (còn gọi là bơm proton) nằm ở màng tế bào viền để vận chuyển HCl đã được bài tiết ở trong lòng tế bào viền ra bên ngoài đổ vào lòng dạ dày tạo nên dịch vị. Do đó trong các trường hợp loét dạ dày có sự tăng tiết dịch vị thì người ta thường sử dụng các thuốc ức chế bơm proton này. Các thuốc có tác dụng bất hoạt enzym bằng cách gắn với enzym tạo nên phức hợp không còn hoạt tính vận chuyển ion H+ và được gọi là thuốc ức chế bơm proton.
Các thuốc thường được sử dụng
Hiện nay đã có 5 thế hệ thuốc thuộc nhóm ức chế bơm proton được sử dụng rộng rãi.
  !important; Omeprazole: Viên 20mg được tổng hợp năm 1979, có tác dụng ức chế đặc hiệu không hồi phục đối với bơm proton H+ K+ ATPase của tế bào thành, có vai trò quan trọng trong sự tiết acid ở giai đoạn cuối cùng. Thuốc có tác dụng ức chế tiết acid mạnh, có thể tạo ra vô toan. Với liều 20mg/ngày có thể làm giảm tiết 80%. Các triệu chứng lâm sàng hết ngay từ những ngày đầu, với liều 20mg/ ngày dùng trong 2 tuần thì tỷ lệ liền sẹo là 70 – 80% và tăng lên 85% sau 4 tuần. Với liều 40mg/ngày, tỷ lệ liền sẹo đạt 90% và có hiệu quả cao trong liền sẹo các vết loét ngoan cố. Nhưng nếu dùng liều đơn độc cũng không ngăn cản được loét tái phát.
  !important; Lansoprazole: Hàm lượng 30mg là thuốc ức chế bơm proton thế hệ thứ hai, với liều 30mg/ngày điều trị trong 8 tuần tỷ lệ liền sẹo loét dạ dày đạt 89 – 92% và diệt HP 21 – 43%; tỷ lệ liền sẹo loét hành tá tràng khoảng 96% và diệt HP từ 5 – 52%.
  !important; Pantoprazole: Hàm lượng 40mg là thuốc ức chế bơm proton thế hệ thứ 3, liều thích hợp được sử dụng là 40mg/ngày nếu dùng trong hai tuần tỷ lệ liền sẹo là 89% và tỷ lệ giảm đau là 89%; nếu sử dụng trong 4 tuần thì tỷ lệ liền sẹo là 99%. Thuốc được dung nạp tốt, liền sẹo nhanh, ít tác dụng phụ.
  !important; Rabeprazole: Hàm lượng 20mg là thuốc ức chế bơm proton thế hệ thứ 4, tác dụng ức chế tiết acid mạnh hơn omeprazole 2 – 10 lần. Thuốc nhanh chóng kiểm soát acid, với liều 20mg/ngày ngay trong ngày đầu đã ức chế tiết acid tới 88%. Liều thích hợp dùng trong lâm sàng là 20mg/ngày dùng trong 4 – 6 tuần.
  !important; Esomeprazole: Hàm lượng 20mg hoặc 40mg là thuốc ức chế bơm proton thế hệ thứ 5, có tác dụng ức chế tiết acid kéo dài nhờ trong công thức có đồng phân quang học S không bị chuyển hoá bởi hệ men cytochrom P450 trong gan. Liều dùng 20 – 40mg/ngày, dùng trong 4 – 6 tuần.
Những lưu ý khi sử dụng
Khi được sử dụng các thuốc ức chế bơm proton chưa phải là thuốc mà ở dạng tiền thuốc, tức là sau khi uống được hấp thu vào máu hoặc đi đến nơi dược chất tác động mới được chuyển hóa thành thuốc khi đó mới có tác dụng. Do đó khi sử dụng các thuốc này cần có một số chú ý: Là tiền thuốc và không bền ở môi trường acid, vì vậy các thuốc ức chế bơm proton đều bao tan ở ruột. Không nên bẻ nhỏ hoặc nghiền viên thuốc trước khi uống để bảo vệ dược chất. Nên uống thuốc ức chế bơm proton trước ăn 30 phút, khi đó thuốc sẽ được đưa đến tế bào viền đúng lúc tế bào viền tiết ra acid do bữa ăn, có acid tiền thuốc biến thành thuốc và phát huy tác dụng.
Thời gian bán thải của thuốc khoảng 1 – 2 giờ, nhưng nhờ gắn với bơm proton bằng liên kết thuận nghịch, vì vậy tác dụng ức chế sự tiết acid mạnh và kéo dài. Một số thuốc có thể gây tương tác thuốc do ức chế cytocrom P450 đưa đến giảm sự chuyển hóa và thải trừ khi dùng chung như seduxen, theophylin…
Những tác dụng không mong muốn và khuyến cáo mới nhất
Hiện nay, thuốc ức chế bơm proton là một thành phần cơ bản trong các phác đồ điều trị viêm loét dạ dày, hành tá tràng hiện nay, tùy theo thể bệnh và mức độ bệnh mà thời gian dùng thuốc sẽ từ 6 – 8 tuần. Ngoài các đặc điểm trên, cũng cần lưu ý một số tác dụng không mong muốn có thể xảy ra như dùng kéo dài dẫn đến làm tăng gastrin máu, mức gastrin sẽ trở về bình thường vài tuần sau khi ngưng thuốc. Các tác dụng phụ thường thấy là tiêu chảy, táo bón, đau đầu.
Gần đây, Cơ quan quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) đã tiến hành các nghiên cứu về tính an toàn của thuốc ức chế bơm proton khi dùng liều cao hoặc kéo dài. Ngày 25/5/2010, trên trang web chính thức của mình, FDA đưa ra cảnh báo với các bác sĩ và bệnh nhân khi sử dụng thuốc ức chế bơm proton liều cao hoặc kéo dài trên một năm sẽ làm gia tăng nguy cơ gãy xương chậu, xương cổ tay và xương cột sống. Đồng thời yêu cầu các hãng dược phẩm bổ sung nguy cơ này vào nhãn thuốc. Chính vì vậy, FDA khuyến cáo các bác sĩ cũng như bệnh nhân cần cân nhắc giữa lợi ích và nguy cơ khi sử dụng thuốc này, từ đó đưa ra thời gian điều trị và liều điều trị thích hợp. Khi người sử dụng có bất cứ biểu hiện gì khác thường cần tới gặp bác sĩ. Bên cạnh đó, FDA cũng yêu cầu các hãng dược phẩm bổ sung nguy cơ này vào cả phần tác dụng không mong muốn và phần thận trọng khi dùng thuốc.
Đình chỉ 3 loại thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng
Sở Y tế Hà Nội vừa đình chỉ lưu hành 3 loại thuốc không đạt tiêu chuẩn chất lượng:
Thuốc viên nén bao phim cenpro (ciprofloxacin 500mg), số kiểm soát: 06/110211, HD: 110214, SĐK: VD-3247-07 do Công ty cổ phần Dược phẩm TƯ III sản xuất;
Thuốc viên nang traclor (cefaclor 250g), số kiểm soát: 001, NSX: 2/2/2010, HD: 2/2/2013, SĐK: VD- 3449-07 do Công ty cổ phần Dược phẩm TV Pharm sản xuất do không đạt tiêu chuẩn về chỉ tiêu độ hòa tan;
Riêng thuốc tiêm bột ficaoxim (cafotaxim 1g), số kiểm soát: DI 0610002 (trên lọ thuốc) và OWE-135 (trên ống dung môi), NSX: 26/6/2010, HD: 25/6/2012, SĐK: VN- 5885-08 do Công ty Delhi Pharma Ấn Độ sản xuất, Công ty TNHH một thành viên Dược phẩm TW 2 nhập khẩu bị đình chỉ do không đạt tiêu chuẩn về chỉ tiêu hàm lượng cafotaxim và giới hạn tiểu phân.
Phát hiện mới về mẫn cảm thuốc điều trị ung thư bạch cầu
Các nhà khoa học tại Bệnh viện Nhi thuộc Trường đại học California (Mỹ) đã phát hiện con đường mới để xác định các gen đặc hiệu có vai trò quyết định làm thế nào các tế bào ung thư thích ứng hoặc mẫn cảm với thuốc điều trị ung thư. Phát hiện mới này liên quan đến sự tạo ra các đột biến di truyền khác nhau mà kết quả gây ra ung thư bạch cầu. Sự kết hợp các đột biến đặc hiệu này với kết quả điều trị sẽ giúp hiểu rõ hơn cơ chế mẫn cảm thuốc điều trị ung thư bạch cầu cũng như các loại ung thư khác xảy ra trong cơ thể.
Khi bắt đầu quá trình điều trị bệnh nhân ung thư, các bác sĩ chỉ có một hoặc hai sự thay đổi để lựa chọn loại thuốc điều trị ung thư thích hợp và có tính khả thi nhất phục vụ quá trình điều trị. Phát hiện này là rất quan trọng và cần thiết để hiểu rõ hơn cơ chế mẫn cảm thuốc điều trị ung thư, từ đó giúp bác sĩ quyết định lựa chọn liệu pháp điều trị ung thư bạch cầu thích hợp và có hiệu quả nhất. Hơn thế nữa, các nhà khoa học còn hy vọng rằng phát hiện mới sẽ giúp xác định các liệu pháp điều trị ung thư hiệu quả hơn và phát hiện các con đường để dự đoán trước và tiến tới loại bỏ sự mẫn cảm thuốc điều trị ung thư ở người trong thời gian tới.
Khuyến cáo mới về thuốc tránh thai cho phụ nữ có bệnh
Các quan chức y tế Mỹ vừa đưa ra những hướng dẫn về dùng thuốc an toàn cho phụ nữ phẫu thuật giảm cân hay mắc các bệnh mãn tính khác.
Trung tâm Kiểm soát ngăn ngừa dịnh bệnh khẳng định hầu hết các loại thuốc tránh thai đều an toàn với phụ nữ đang có bệnh. Nhưng CDC cũng cảnh báo: “Thuốc tránh thai ít hiệu quả đối với những người phẫu thuật giảm cân bởi vì các thành phần trong thuốc sẽ ít được hấp thụ.
Một cảnh báo khác là những phụ nữ bị bệnh viêm ruột sẽ có nguy cơ bệnh máu vón cục cao hơn. Những phụ nữ này không nên dùng các loại thuốc tránh thai có chứa estrogen vì chúng sẽ làm tăng nguy cơ mắc chứng máu vón cục.
CDC cũng khuyến nghị phụ nữ nên đặt các câu hỏi với bác sĩ về các phương tiện tránh thai. Với những hướng dẫn trên, sẽ có thêm nhiều phụ nữ chủ động trong phòng tránh thai.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Hữu Đức (2011). Tai biến do ngưng dùng thuốc. Sức khỏe và Đời sống
2. Nguyễn Hữu Đức (2011). Những loại trái cây tương kỵ với thuốc. Sức khỏe và Đời sống
3. Hoàn Thái (2011). Có cần ngưng sử dụng. Sức khỏe và Đời sống
4. Bùi Văn Uy (2011). Nhiễm nấm Candida đường tiêu hóa: Dùng thuốc gì? Sức khỏe và Đời sống
5. Một số tài liệu và thông tin, hình ảnh khác trích từ internet